Snack's 1967
Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn 1930-1945

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn 1930-1945

Đánh giá: 7/10

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn 1930-1945

Trương đặt tình yêu lên trên cả dư luận xã hội, trên cả nhân phẩm: ” yêu nhau đến không cần gì cả, không kể đến cha mẹ, đến xã hội. Chẳng biết Thu có là người yêu đến bậc ấy không. Mình thụt két mà Thu yêu mới là yêu.


Nhân vật Cảnh trong “Thanh đức” cũng giống Trương, hai nhânvật này bổ sung cho nhau để hoàn thiện bản chất thô bạo, đểu cáng một cách trắng trợn. Cảnh thay đổi tình nhân như thay đổi áo sơ mi. Hắn dùng vũ lực, dùng tiền bạc để chiếm đoạt tình nhân của bạn. Ðối với hắn ở trên đời này “không còn cái gì đáng gọi là thiên liêng nữa, nếu ta muốn dành chữ thiên liêng cho một cái gì”.


Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đi từ lãng mạn đến suy đồi là một hiện tượng có tính quy luật và dễ hiểu.


Từ những nhân vật tích cực như Mai, Loan, từ những tình cảm tốt đẹp Ngọc, Loan, Liên, tác giả mau chóng chuyển sang những nhân vật do dự, giỏi chịu đựng hơn là ít đấu tranh như Hồng, Nhung … vấn đề chống lễ giáo phong kiến chỉ một vài năm sau lùi dần vào dĩ vãng. Và cuộc đấu tranh bằng văn hóa chống phong kiến chỉ xảy ra trong phạm vi lễ giáo. Ðối với chế độ chiếm hữu ruộng đất cái gốc của lễ giáo phong kiến tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn không đề cập đến. Tiểu thyết Tự Lực văn Ðoàn chỉ chống đối với bộ phận hủ bại nhất của giai cấp phong kiến ngăn trở hạnh phúc cá nhân.


Về văn học lãng mạn, Ðặng Thai Mai nhận định: “Phần đông các nhà văn vẫn sung sướng ẩn nấp sau cái biểu ngữ “không làm chính trị” để lao đầu vào con đường “tự do chủ nghĩa” và ca ngợi tự do ái tình, tự do cá nhân và chủ nghĩa anh hùng viển vông. Tất cả cống hiến của văn chương thời này là những tìm tòi về kỹ thuật biểu hiện và những cố gắng để phân tích tâm lý của con người tiểu tư sản” (nghiên cứu văn học số 1-1960)


2. Xu hướng bình dân:


Thời kỳ mặt trận dân chủ do Ðảng công khai lãnh đạo. Trên văn đàn công khai, văn học lãng mạn không còn ưu thế nữa. Nó không phù hợp với thực tế xã hội sôi nổi với quần chúng lao động đấu tranh, với tâm lý độc giả ít nhiều đổi thay. Nhưng nó vẫn còn ít nhiều độc giả tư sản và tiểu tư sản thành thị, do đó những tac phẩm lãng mạn vẫn kế tiếp nhau ra đời.


Mặt khác, cho khỏi lạc lõng, văn học lãng mạn chạy theo phong trào bình dân: nó gượng thích nghi với hoàn cảnh mới để dễ tồn tại.


Tự Lực Văn Ðoàn dù muốn “tự lực” đến thế nào cũng chịu sức tác động của Mặt trận dân chủ. Họ phải khuôn theo sự chuyển hướng trong công chúng. Họ thêm mục “Bùn lầy nước đọng” chuyên viết về dân quê. Năm 1939, Hoàng Ðạo, tác giả cuốn “Con đường sáng”, công bố “10 điều tâm niệm” bàn về đạo làm người : con người phải hoàn toàn theo mới, tin ở sự tiến bộ, sống theo một lý tưởng và làm việc xã hội. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn trong thời kỳ này, muốn tỏ ra nặng khuynh hướng xã hội, băn khoăn đền bình dân. Nói chung gọi là “xu hướng bình dân” của họ chỉ vươn lên được đến cái mức cải lương xã hội mà thôi.


“Hai vẻ đẹp” của Nhất Linh, nó đặt lên câu hỏi: giữa hai vẻ đẹp, vẻ đẹp vị nghệ thuật và vẻ đẹp vị nhân sinh, thì vẻ đẹp nào đẹp hơn ? và nó giải đáp rằng đẹp vị nhân sinh mới thật là đẹp.


Vốn con nhà nghèo, Doãn vào làm em nuôi bà Thượng, được sang Pháp du học, thi đỗ cử nhân luật . Nhưng chàng không chịu ra làm quan, suốt ngày chỉ mải mê vẽ tranh. Dần dầìn Doản đi về nông thôn để vẽ, hóa ra gần gũi với những nỗi khổ của dân quê, như cảnh khổ cực, tiều tụy của nông dân hiện ra trước mắt: “mấy mảng bè rau rút màu xanh già, mùa thu rắc hoa vàng lấm tấm, lại càng tăng vẻ bẩn thỉu của cảnh ao tù…” .Và cảnh : “một đứa bé con trần truồng đi ra cầu ao bụng to và hai chân lẳng khẳng trông tựa một con nhái dựng đứïng”.


Lòng thương người ở Doản ngày một tăng, Doản không thể dửng dưng trước cuộc đời. Cuộc đời mải mê hình sắc trước kia đối với Doản thanh cao biết bao ! nay Doản không dám tự hào về nó. Cuộc đời như thế đã trở thành vô nghĩa. Không những thế Doãn còn thấy nghệ thuật thuần túy của mình là bước tường ngăn cách của mình với cuộc sống thực, cũng như cuộc sống giàu sang của bà mẹ nuôi Doãn là một bức tường ngăn Doãn với người bình dân “Doãn so sánh túp nhà lụp xụp ở hai bên vệ đường với mái nhà gạch cụ Thượng đỏ tươi lẩn sau chùm lá hoàng lan”.


Cho nên Doãn phải sống một cách khác! Phải sống vì dân quê, để phục vụ dân quê. Thế là tâm hồn Doản trở về với dân quê, tự nguyện xây dựng hạnh phúc cho dân quê. Doãn tìm thấy bạn chí tình của mình ở dân quê lầm than, khác nào Doãn tìm thấy nguồn sống ở cái hình ảnh dịu dàng của người mẹ đau khổ.


Giữa hai vẻ đẹp, vẻ “đẹp vì đẹp” của người họa sĩ không biết gì khác ngoài hội họa, với vẻ đẹp của người đem tân trí hoạt động vì bình dân. Doãn không do dự đã trả lời vẻ đẹp nào là đẹp hơn, ít ra, Doãn cũng thấy vẻ đẹp sau quả là đáng quý và có thể đem lại hạnh phúc cho mình.


Chủ đề tác phẩm tốt vì nó mượn ở cuộc đấu tranh tư tưởng do Ðảng lảnh đạo. Ở đây vẫn là câu chuyện cái “tôi”, cái “tôi” đi tìm hạnh phúc. Không tìm hạnh phúc được ở nghệ thuật thuần túy thì tìm hạnh phúc ở con đường phục vụ bình dân. Hiện thực khách quan miêu tả trong tác phẩm chỉ là mấy cảnh nghèo thường thấy ở thôn quê. Tất cả là những diển biến trong tâm hồn nhân vật. Sự thay đổi chí hướng quá mau, phần nào gượng ép: một số điều mắt thấy tai nghe, gợi lên những cảm nghĩ cần thiết, dẫn đến sự đột biến trong tư tưởng! Tâm lí của một thanh niên đi chệch hướng, nay chợt tỉnh, ù té chạy theo phong trào! Doãn gần gũi người nghèo, vì Doãn vốn là con nhà lao động. Nhưng Doản đã sống xa nông thôn từ thuở bé, cần phải được tiếp nhận cái sức nóng hổi của cuộc sống thực, cần được rèn luyện trong thực tế đấu tranh mới có thể đi tới một chí hướng sâu sắc được. Người ta thấy thiếu cái sức nóng hổi ấy, thiếu cái cơ sở hiện thực quí giá ấy. Hình tượng ở đây khuôn theo luận đề, mới minh hoạ được mệnh đề, chứ chưa biến cái luận đề thành một chất sống.


Hơn nữa, Doãn trở lại với nông dân, mà còn đứng trên sẳn sàng ban ơn xuống, không để nông dân như “xác còn vờ” chẳng ai chăm sóc tới. Hẳn Doản nghĩ đó là nhiệm vụ của người tài trí và sẳn tiềún !. Ðiều dự định của Doản gắn chặt với tình thương mẹ, một người cố nông đau khổ, nó khiến ta cảm động song nó không khỏi làm ta còn dè dặt.


Sau những suy nghĩ lao lung, Doản mới có một lời tự hứa, chưa rõ Doản sẽ làm gì. Tác phẩm chấm hết, để lại cho người đọc một mổi băn khoăn là bởi cái hướng còn mơ hồ quá, chính tác giả cũng chẳng rõ Doãn sẽ làm gì !.


Doản cũng đến như Duy trong “Con đường sáng” như Hạc và Bảo trong “Gia đình”


“Con đường sáng” của Hoàng Ðạo viết năm 1938. Hoàng  Ðạo quan niệm : thanh niên trụy lạc thì đau khổ. Họ phải sống có lí tưởng. Họ phải thóat con đường tối, con đường trụy lạc, đi tìm “Con đường sáng” . Con đường sáng ấy là ở cuộc sống phục vụ dân quê. Nó gập ghềnh khúc khuỷu. Phải kiên trì đi tới mới thành công và có hạnh phúc. Ðó là tư tưởng chủ đạo của Hoàng Ðạo, tác giả truyện “Con đường sáng”, người đã viết “mười điểu tâm niệm”


Duy một thanh niên có học, con nhà giàu và đã lao vào con đường trụy lạc. Nhưng Duy sớm nhận ra được sự trống rổng trong cuộc đời. Có lúc Duy muốn quyên sinh. Duy lo sợ những ngày sắp tới Duy mơ ước một cuộc đời giản dị, trong sạch. Duy tha thiết sống và tình yêu của thơ khiến cho Duy càng tha thiết với sự sống hơn.


Gần thơ, gần cuộc sống nơi thôn dã, dần dần Duy đã nhận thấy : ” cái vui ở trong công việc ngày mùa, cái vui trong sạch nó đợi chàng từ lâu …” Duy thoáng nghĩ tới “Con đường sáng” : “những người thợ mạnh khỏe kia đã vô tình đem lại cho chàng một lối sống mới, một con đường đi đến hạnh phúc”.


Muốn rứt bỏ đời trụy lạc, Duy tưởng đến tìm hạnh phúc ở thôn quê, ở “sự trong sạch ở linh hồn và thể phách” , “Chốn thôn quê yên tĩnh này sẽ làm cái tổ ấm áp của con chim bấy lâu bay mỏi ở những rừng xa, xứ lạ, vẩn vơ tìm cái hạnh phúc nó vẫn đợi sẵn ở đây”


Quan tâm đến đời sống của nông dân, Duy buồn rầu nhận thấy những nổi khổ cực của họ. Cảnh “hai đứa bé gầy gò như hai cái que, bụng ỏng chảy xuống, thò tay vào rá bốc cơm, một thứ cơm bay lên một mùi mốc như mùi của rơm rác”, làm cho chàng phải nghĩ ngợi.


Duy đi tìm lí tưởng, lí tưởng đó là :”làm dịu nổi đau khổ của nông dân, đưa những người sống tấm thảm kịch kia đến một đời êm đẹp”


Thế là Thơ và Duy bắt tay vào công việc. Nhưng công việc to lớn, khó khăn quá :”xung quanh thành kiến mạnh mẽ và kiên cố quá, sự ngu độn dày đặc quá. Duy có cái cảm tưởng rằng mình chỉ là một con ruồi mắc trong một cái mạng nhện, vùng vẫy mãi không sao thoát ra được.


Duy thấy cái nguyên nhân của mọi sự đau khổ của nông dân là ở sự ngu dốt, mà ngu dốt là tại không được học :”Duy nghĩ đến dân quê, nhớ lại gian phòng sách và vui mừng đã hiểu nguyên nhân giản dị của sự ngu muội đè lên tâm trí người nghèo khổ…. và Duy đã nhận thấy : “nổi thống khổ của dân quê chàng trông như một trái núi lớn, sừng sững, bất di bất dịch và sự ngu muội của dân quê như mây đen bao phủ lấy ngọn không biết tự bao giờ nhưng dày đặc như đêm tối … chàng cảm thấy cái yếu đuối, cái hèn mọn của con người trước trái núi sừng sững ấy…”. chính bởi cái xu hướng “bình dân” của tác phẩm không phải là xu hướng cách mạng, cho nên :”sau một giây mộng tưởng ngắn ngủi. Duy càng thấy vô vị chua cay của thực tế; ở đây chỉ có chàng với cái yếu đuối cái hèn mòn …”


“Con đường sáng” của Hoàng Ðạo viết vào thời kỳ mặt trận dân chủ, giữa lúc quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi của mình, “Con đường sáng” con đường cải lương tư sản – chỉ đem lại một ảo tưởng nguy hiểm. Chúng ta mong thanh niên thoát con đường tối nhưng cũng mong họ đi vào “con đường sáng thực sự ”                                               


Cũng như Doãn trong “Hai vẻ đẹp”, Duy trong “Con đường sáng”, Bảo, Hạc trong “Gia đình” của Khải Hưng viết 1936. Khải Hưng đã đối lập cuộc sống được miêu tả như là sự thanh thản, đầy hạnh phúc của cặp vợ chồng Hạc, Bảo “làm ruộng”, với cuộc sống nhỏ nhen, kình địch về địa vị xã hội của những anh chị em trong một đại gia đình phong kiến. Hạc đang học “Ðốc tờ”, bỏ về ấp cùng với Bảo thực hiện những công cuộc cải cách ở ấp mình để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần dân quê. Họ tuy vẫn thu tôì nhưng sau khi đã nạp đủ thuế còn lại bao nhiêu đem dốc cả vào công việc cải thiện đời sống cho tá điền như phát thuốc, đắp đường, xây trường học, sân vận động và dựng cả một khu nhà nghỉ mát. Như tất cả những nhân vật thơ mộng khác của Khái Hưng, Bảo và Hạc đã thành công một cách dễ dàng. Khái Hưng dựng lên một hình ảnh hạnh phúc của Bảo như sau:


“Bảo ngước nhìn con chim chích chòe đương phưỡn ngực cất đuôi hót từng nhịp dài. Bảo so sánh cái sung sướng hồn nhiên của mình với tiếng hót vui vẻ của con chim một buổi sáng xuân êm mát…”


Bảo và Hạc sống thỏa mãn, thanh thản trong công cuộc từ thiện ấy :”Hạnh phúc của họ tức là hạnh phúc của ta… còn gì sung sướng bằng trông thấy ở trước mắt những người dân quê mặt mũi sạch sẽ, nô đùa trò truyện thảnh thơi…”


Các nhân vật trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn cũng có khi họ nhìn thấy đại gia đình phong kiến đang bóc lột những người dân quê. Thu cảm thấy: ” cốc sâm banh ngon ngọt. Chiếc áo sa tanh bóng nhoáng, chiếc nhẫn kim cương mà ta tặng cho Liên, những thứ xa hoa ấy là do tá điền của ta, do mồ hôi của bọn sống lam lũ cầm hơi ấy mà ra cả …” (Mái nhà tranh) . Doãn nghĩ : ” tiền ăn học của mình, cuôc sống vật chất của ba cô em là của nông dân súc tích lại” ( Hai vẻ đẹp). Dũng ngậm ngùi nhận xét : “trong gia đình không có một người làm một việc gì cả mà người nào cũng sống phong lưu sang trọng” (Ðôi bạn).


Tóm lại trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, trước cảnh nông dân bị bóc lột tàn tệ, những suy nghĩ nói trên là tiến bộ. Nhưng dù sao nó cũng chỉ mới là những nhận thức của những trí thức bất tự trọng. Những nhận thức ấy chưa thóat khỏi quĩ đạo tư sản và những nhận thức ấy không ít những phức tạp, chính đó là sự phức tạp của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Có lúc thì tỏ ra trân trọng quí mến người nông dân, có lúc lại tỏ ra khinh bỉ miệt thị người nông dân. Doãn cho rằng : “xã hội dân quê bao giờ cũng nghèo xơ, nghèo xác như bây giờ. Hai mươi năm trước đây cũng vậy. Hai mươi năm sau nữa cũng thế này thôi. Không có chút hy vọng gì về một sự đổi thay và kịch liệt như một trận gió mạnh nổi lên thổi sạch hết bụi cát, rơm rác”. (Hai vẻ đẹp) đối với Dũng thì cho nông dân quen sống với cảnh khổ :”không hề khao khát một cuộc đời sáng sủa hơn, mong ước một ngày mai tươi đẹp hơn ngày hôm nay”. (Ðoạn tuyệt). Những nông dân ấy còn là Hai Lẫm bị địa chủ đánh đau chết cha chết mẹ, sưng bươu cả đầu lên mà vẫn đinh ninh rằng “cụ lớn đánh con là cụ lớn thương…thế mới biết cụ lớn còn khỏe” (Ðôi bạn). Ðó là những người nông dân Nhiêu Tích (trong truyện ngắn May quá) Sửu (trong truyện ngắn hai cảnh Ngoài phố) khờ khạo đến ngớ ngẩn, thật thà đến dại dột. Ðó còn là Bìm (trong truyện ngắn Hai chị em). “An phận như một con lợn không tư tưởng… mà đời nàng với những con lợn kia không biết đằng nào gía trị hơn đằng nào đáng sống hơn”   


3.