Teya Salat
Tác giả Chế Lan Viên

Tác giả Chế Lan Viên

Đánh giá: 7/10

Tác giả Chế Lan Viên


1 – Vài nét về tiểu sử và con người


Tên thật là: Phan Ngọc Hoan


Bút danh khác: Thạch Hãn, Chàng Văn.


– Quê quán: Can an- Cam lộ- Quảng Trị. Thời trai trẻ chủ yếu sống ở Quy Nhơn – Bình Ðịnh. Có thể xem đây là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.


– Cách mạng tháng Tám thành công, Chế Lan Viên đến với cách mạng bằng sự hăng hái nhiệt tình của tuổi trẻ. Ông làm biên tập cho các báo Quyết thắng của Mặt trận Việt minh, Cứu quốc, Kháng chiến của liên khu IV. Năm 1949 Chế Lan Viên được kết nạp vào Ðảng.


– Sau năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở Phòng Văn nghệ, Ban tuyên huấn Trung Ương. Ðến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học. Từ năm 1963 là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam.


– Sau năm 1975, ông chuyển vào công tác ở thành phố Hồ Chí Minh và qua đời ngày 19 6 – 1989.


Ông để lại cho nền văn học dân tộc một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ :
+ 15 tập thơ .
+ 7 tác phẩm văn xuôi.
+ 8 tập tiểu luận – phê bình.
Tóm lại: Cả cuộc đời mình, Chế Lan Viên gắn bó với Tổ quốc, có nỗi đau và niềm vui. Cuộc sống cách mạng đã giúp Chế Lan Viên Bay theo đường dân tộc đang bay, tạo điều kiện thuận lợi để nhà văn phát huy được tài năng, đóng góp lớn cho kho tàng văn chương của dân tộc.


 2 Chế Lan Viên với thơ
2.1 Vài nét về quan niệm thơ của Chế Lan Viên:


Quan niệm thơ của Chế Lan Viên được thể hiện ở các bài viết, bài nói chuyện, đặc biệt là trong rất nhiều bài thơ và tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:


2.1.1 – Quan niệm về vị trí và phẩm chất của nhà thơ:


Chế Lan Viên quan niệm sáng tạo thơ là một nghề cao quý trong xã hội, nhà thơ phải có vị trí, sứ mệnh cao cả đối với đời. Nghề thơ, không phải ai cũng làm được, bởi nhà thơ phải có hồn thi sĩ. Nhà thơ không chỉ biết tin yêu cuộc đời, có khát vọng vươn tới cái chân, thiện, mĩ của cuộc sống, mà còn phải thật sự khổ luyện để vượt lên tất cả. Nhà thơ cần phải nhìn, nghe và suy ngẫm để góp phần lí giải khám phá những vấn đề trong đời sống. Nghề thơ đòi hỏi nhà thơ phải có tài năng thơ mới có thể cảm nhận, khám phá, thể hiện cuộc sống một cách tinh tế, nhạy bén. Mặt khác, nghề thơ còn đòi hỏi nhà thơ vừa phải biết giữ gìn, trân trọng và phát huy cái tài năng bẩm sinh trời cho, vừa phải không ngừng học hỏi, tự bồi dưỡng, rèn luyện và trau dồi về mọi phương diện nhằm sáng tạo nên cái thần mới cho thơ. Chế Lan Viên luôn xem việc học hỏi, sáng tạo là cuộc Vượt bể trong suốt cả đời mình và ông khẳng định, Nghề của chúng ta cần phải nắm bắt chính xác vòng quay thời đại để tạo nên mùa và đừng để thời gian trôi qua một cách vô ích, phải luôn biết vượt lên tất cả để Săn thơ, Tìm thơ. Chế Lan Viên đòi hỏi, nhà thơ cần phải có cá tính sáng tạo. Ông ví mỗi nhà thơ như một dòng sông mang đặc tính và vẻ đẹp riêng. Nhà thơ cần phải giữ được cái tạng riêng cho mình. Nếu chỉ biết đi theo lối mòn trong sáng tạo, thì tất yếu nhà thơ tự đánh mất mình, hoặc sẽ rơi vào cái đội quân nhạt nhạt mờ mờ. Nghề thơ đòi hỏi nhà thơ không chỉ có tài năng, mà còn phải có nhân cách, có cái tâm trong sáng bởi đó là gốc rễ của văn chương. Ðừng hợm hĩnh và đừng bao giờ nghĩ rằng không có các anh thì không ai uống sữa của Trời. Với quan niệm trên, Chế Lan Viên đã khẳng định vai trò, tầm vóc của nhà thơ trong đời sống xã hội, những người đã và đang làm công việc vực sự sống ba chiều lên trang thơ hai mặt phẳng.


 2.1.2 – Ý nghĩa và tác dụng của thơ :


Chế Lan Viên luôn có suy ngẫm sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đạo đức trong đời sống xã hội. Ông luôn tự hỏi ta vì ai, tôi viết cho ai? để từ đó sáng tạo nên những vần thơ có ích cho đời và vui sướng khi trở thành một người cầm bút có ích, làm thơ có ích. Mặt khác, Chế Lan Viên quan niệm, thơ không chỉ đưa ru, sưởi ấm người đọc bằng tình cảm mãnh liệt, ước mơ lãng mạn, mà còn phải có khả năng thức tỉnh họ bằng ánh sáng của trí tuệ. Qua cách thể hiện khác nhau, Chế Lan Viên luôn nhấn mạnh, thơ góp thêm tiếng cười, thêm vị muối cho đời, là nhành hoa mát mắt cho đời, thơ có khả năng kì diệu: tát bể, cân đời, thơ làm cho con người tự tin hơn trong cuộc sống. Từ quan niệm, thơ là các đỉnh tinh thần chất ngất, Chế Lan Viên đã chỉ rõ tác dụng mãnh liệt của thơ đối với người đọc, tác dụng đó vượt khỏi giới hạn về không gian. Cho dù câu thơ viết ở kinh tuyến này nhưng vẫn làm nên sự rung động trào sôi ở kinh tuyến khác. Ông khẳng định: thơ phải trả lời, phải có khả năng giải đáp được những gì đã, đang và sẽ xảy ra trong đời sống. Nếu thiếu lời giải đáp thì thơ đã mắc Nợ đối với đời. Chế Lan Viên còn muốn thơ phải là Thuốc có khả năng chữa lành vết thương trong cõi tinh thần con người, có ích cho nỗi đau người, để phục sinh con người. Thơ là Tiếng hú, một tín hiệu giao cảm để từ đó lay động tâm hồn người đọc khiến họ sống có ý nghĩa hơn đối với đời.


Tóm lại, Chế Lan Viên luôn tâm niệm: thơ cần có ích / hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi, đó là cái đích mà Chế Lan Viên luôn hướng tới.


2.1.3 – Nghệ thuật sáng tạo thơ


Vốn tâm huyết với nghề, với thơ, Chế Lan Viên luôn có suy nghĩ độc đáo, sâu sắc về nghệ thuật sáng tạo thơ. Ðiều này được biểu hiện rõ ở nhiều bài tiểu luận, phê bình, nói chuyện thơ và ở nhiều bài thơ của Chế Lan Viên. Ông quan tâm nhiều về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, về thể loại, về vần, câu, chữ, ý, nhạc …, cũng như việc phát huy truyền thống và đổi mới, sáng tạo ở phương diện nghệ thuật thơ. Càng về cuối đời, Chế Lan Viên càng bàn kĩ và suy ngẫm nhiều về nghệ thuật sáng tạo thơ. Ông có một loạt bài thơ nói về Thi pháp ồn, Thi pháp trẻ và Thi pháp của thơ độc đáo, điều đó gợi ra cho những người sáng tác thơ bao điều cần ngẫm nghĩ. Chế Lan Viên đòi hỏi người thợ thơphải nắm bắt được một số kĩ thuật và phương pháp cần thiết cho việc sáng tạo thơ. Ông cho rằng: làm thơ là tạo ra một hành tinh thứ hai bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ thơ có lúc mộc mạc hồn nhiên, nhưng lại có lúc phải mang vẻ đẹp kì diệu như hài hoa cô Tấm, như mái tóc thơm hương cấm cung. Nhà thơ phải biết tìm tòi, cân nhắc, lựa chọn để từ ngữ được sử dụng thêm cái đa thanh, đa sắc của đời. Chế Lan Viên không chấp nhận sự cầu kì, gò gẫm, mà cần phải căng cái dây hình ảnh ngữ ngôn qua vực tâm hồn sâu thẳm. Ông đã phê phán kiểu cố làm cho mới lạ, làm xiếc chữ nghĩa trong thơ Nhà thơ cần chọn được cho thơ mình cách nói, giọng điệu hợp lí nhất với tình cảm và nhận thức của người đọc trong những hoàn cảnh khác nhau của đời sống xã hội và ở giọng điệu nào cũng toát lên sự chân tình, tâm huyết vì con người, vì cuộc đời. Nhà thơ phải luôn biết mở rộng tâm hồn lắng nghe, đón nhận nhiều cung bậc của nhạc điệu cuộc sống để tạo nên chất nhạc cho thơ. Thơ cần có sự quyện hòa giữa nhạc và ý, câu thơ ở ngoài là ý là hình / ở trong là nhạc. Chế Lan Viên cho rằng, nhạc có khả năng làm cho tâm hồn lắc lư, làm cho con người giải thoát… Chính những cung bậc nhạc điệu đã góp phần tăng thêm sức ám ảnh của thơ đối với người đọc. Mặt khác, Chế Lan Viên rất chú trọng đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của thơ. Ðạt đến cái Thiện, cái Chân là mục đích mà thơ hướng tới, nhưng tất cả điều đó phải được biểu hiện bằng hình thức Ðẹp. Ông khẳng định: Hình thức cũng là vũ khí. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí. Sự hài hòa giữa nội dung và hình thức trong thơ sẽ tạo nên vẻ đẹp cho thơ. Tóm lại, trong suốt quá trình sáng tạo, Chế Lan Viên luôn có những trăn trở, suy ngẫm về nghề, về thơ. Ðiều đó đã góp phần không nhỏ đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.


2.2 Thơ Chế Lan Viên trước cách mạng tháng Tám:


– Buổi đầu đến với thơ, Chế Lan Viên đã làm người đọc phải phải kinh dị không chỉ vì sự xuất hiện đột ngột của một tâm hồn thơ trẻ tuổi, mà còn bởi trong giọng buồn quen thuộc của thơ ca lãng mạn 32 45, đây là giọng buồn ảo não, có pha màu huyền bí.
– Tuổi trẻ của Chế Lan Viên gắn liền với Quy Nhơn, Bình Ðịnh, nơi hàng ngày trên con đường đi về, nhà thơ đã cảm nhận được những dấu tích điêu tàn của Chiêm Quốc. Cũng chính nơi đây, tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ đã rung động mạnh mẽ khi nghe kể về những câu chuyện linh thiêng, những truyền thuyết về một đất nước xa xưa, để rồi suy tưởng, hay buồn thương nuối tiếc giống dân Hời.


– Ðến với thơ của Chế Lan Viên trước cách mạng, người đọc dễ dàng nhận thấy, thơ ông in rõ những dấu ấn của thực tại cuộc sống và chất chứa bao niềm suy tưởng về quá khứ đau thương của một dân tộc. Trước những chứng tích của một nền văn minh bị mai một theo thời gian còn lại như : ngọn tháp, đền đài, tượng Chàm , đã gợi lên cho tâm hồn thơ Chế Lan Viên biết bao sự liên tưởng mạnh mẽ và để rồi, nhà thơ lặng lẽ quay về xem non nước giống dân Hời.
– Khám phá những giá trị của thơ Chế Lan Viên trước cách mạng, một trong những điều khiến chúng ta phải ngẫm nghĩ đó là cái thế giới đầy kinh dị, là nỗi đau xót được tạo nên bởi tâm hồn thơ tuổi trẻ có trí tưởng tượng phong phú. Ở ông trào dậy bao điều suy nghĩ và bao nỗi xót xa, buồn tủi về những gì đang diễn ra trong cuộc sống hiện tại. Ông cay đắng khi nhận ra cái thế giới xung quanh mình đầy rẫy những trò gian trá, bịp bợm, thâm hiểm và xảo quyệt, ông ngậm ngùi cho những kiếp Sống mòn, Ðời thừa, Bước đường cùng,…
– Chế Lan Viên tìm đến thơ để gửi gắm và giãi bày sự suy ngẫm của mình về cuộc sống. Ông nói đến nỗi đau của dân tộc Chàm cũng là để bộc lộ nỗi đau của chính mình trước cảnh đời hiện tại. Chính từ những nhận thức đó nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận sâu sắc về sự vô nghĩa, cái u buồn, u tối, cái sầu vô hạn giữa cuộc đời hiện tại và ông đã thốt lên : Với tôi tất cả đều vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau !


( Xuân ) – Có lẽ trong sự sâu thẳm ở cõi lòng Chế Lan Viên, hình ảnh của những tháp gầy mòn vì mong đợi, những đền xưa đổ nát dưới Thời gian, những tượng Chàm lở lói rỉ rên than không chỉ là hình ảnh của một nước Chàm đã mất, mà còn là sự dự cảm về số phận của dân tộc Việt trong cảnh nô lệ lầm than. Cuộc sống hiện tại được Chế Lan Viên cảm nhận với niềm uất hận, đau thương, nên dẫu có xuân về trong nắng sớm nhưng trong lòng ông vẫn đông lạnh giá băng thôi. – Chế Lan Viên phủ nhận thực tại xã hội đương thời và thất vọng, chán nản trước những sắc màu, hình ảnh của trần gian để hướng đến một tinh cầu giá lạnh, một vì sao trơ trọi cuối trời xa. Ông đã đi tìm mình, tìm Cõi Ta trong sự cô đơn và bơ vơ giữa cái mênh mông xa vắng của cuộc đời để rồi xót xa, buồi tủi nhận ra mình chỉ là một cánh chim thu lạc cuối ngàn, ông thốt lên : Ðường về thu trước xa lắm lắm Mà kẻ đi về chỉ một tôi ! Tóm lại, trước thực tại của xã hội đó, nhà thơ Chế Lan Viên đã tìm được cách nói độc đáo để thể hiện một cách thấm thía, sâu sắc những nỗi đau đời của ông. Có thể nói, Chế Lan Viên tìm về quá khứ của một dân tộc khác là một cách nói, mà cũng là một cách tránh nói về hiện thực mất nước của dân tộc mình( Vũ Tuấn Anh).


 2.3 Thơ Chế Lan Viên sau cách mạng tháng Tám.



2.3.1 – Thơ Chế Lan Viên trong thời kì kháng chiến chống Pháp


– Cách mạng tháng Tám thành công, lịch sử dân tộc đã sang trang. Cùng với những thay đổi lớn lao và mạnh mẽ của đời sống dân tộc, cuộc đời và thơ Chế Lan Viên đã thoát khỏi thung lũng đau thương và sự cô đơn, bế tắc để tìm ra ánh sáng, hòa hợp với người.


– Chế Lan Viên hạnh phúc đón chào cách mạng, nhiệt thành tham gia kháng chiến, nhưng con người nghệ sĩ trong ông không ít những nỗi băn khoăn, vướng mắc ở vấn đề nghệ thuật và cách mạng. – Chế Lan Viên sống gắn bó với đời sống kháng chiến, hiểu hơn về Tổ quốc và nhân dân. Trong thời gian kháng chiến, sự sáng tạo thơ của Chế Lan Viên chỉ dừng lại ở tập thơ Gửi các anh gồm 14 bài. Những tháng năm đó, con người nghệ sĩ ở Chế Lan Viên chủ yếu nghiền ngẫm, tìm tòi về phương thức thể thiện để phù hợp với nhu cầu thẩm mĩ của cuộc đời mới. Ộng đã trải qua những gian truân vất vả và cảm nhận được không khí hào hùng, sôi động của dân tộc trong kháng chiến. Ông xúc động mãnh liệt trước bao nhiêu tấm gương hi sinh anh dũng của những con người bình thường giản dị để làm nên chiến thắng.


– Ở tập thơ Gửi các anh, bỏ đi phần gò ép, chập chững buổi đầu trên con đường thơ cách mạng, chúng ta cũng dễ nhận ra sự xúc động của Chế Lan Viên khi viết về người mẹ trong vùng giặc chiếm với tình cảm chân thành. Ðó là lòng yêu thương mẹ của đứa con nghĩ đến mẹ nhiều nước mắt rưng rưng. Nghĩ về mẹ, nhà thơ đã cảm nhận tình thương của mẹ là gió dịu đưa hương, và mẹ thương con như sữa nồng, như nước mắt.