XtGem Forum catalog
Phân tích Giá trị nhân văn trong vợ chồng A Phủ

Phân tích Giá trị nhân văn trong vợ chồng A Phủ

Đánh giá: 7/10

Phân tích Giá trị nhân văn trong vợ chồng A Phủ


Vợ chồng A Phủ là tác phẩm trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, được giải nhất tiểu thuyết, giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955. Vợ chồng A Phủ được sáng tác vào khoảng 1952-1953, là kết quả của cuộc thâm nhập đời sống vào các dân tộc Thái, Dao, Hmông, Mường trên các vùng cao Tây Bắc đất nước. Trước và sau khi sáng tác truyện này, Tô Hoài đã và vẫn giữ một tình cảm sâu nặng với đồng bào miền núi. Ông từng sống chung với họ, ông học một ít tiếng Thái, Hmông để giao tiếp, từng đo tay kết làm anh em với một số người, từng nhận một người con Hmông làm con nuôi, từng là bạn thân của nhiều cán bộ lãnh đạo người miền núi [1]. Có thể nói Vợ chồng A Phủ cũng như các truyện khác trong Truyện Tây Bắc là kết tinh của vốn sống, vốn hiểu biết và nhất là tình yêu thương, lòng kính trọng của nhà văn đối với người dân miền núi Tây Bắc nước ta.


Vợ chồng A Phủ và cả tập Truyện Tây Bắc có một vị trí chắc chắn trong văn học đương đại Việt Nam. Nó mở rộng đề tài văn học sang những vùng núi hẻo lánh chưa được nhà văn đào xới. Nó nhìn nhận con người miền núi với một tình cảm trân trọng, yêu thương, gần gũi. Và chủ yếu là truyện ngắn đã xây dựng được những hình tượng sống động làm người đọc nhớ mãi. Tác phẩm đã được nhà văn chuyển thể và dựng thành phim.


Bản thân truyện Vợ chồng A Phủ đã được viết đi viết lại mấy lần. Văn bản hiện nay là kết quả của lần viết thứ ba, khác nhiều so với lần đầu tiên. Tuy vậy tác giả vẫn thấy thành công chưa đều. “Phần sau truyện còn lỏng lẻo so với phần trước”. Phần sau là phần kể vợ chồng A Phủ sau khi đến Phiềng Sa, Tô Hoài vẫn mong được viết lại. Trong kịch phim Vợ chồng A Phủ ông đã viết hay hơn, được nhà văn Nguyễn Tuân khen. Nhưng câu chuyện viết lại không phải là chuyện dễ dàng. Trong tập Truyện ngắn Việt Nam 1945-1985 (Nxb Văn học, Hà Nội, 1985), khi tuyển truyện này, tác giả đã cắt bỏ phần sau và truyện kết thúc ở đoạn hai người đã bỏ xa Hồng Ngài tới Phiềng Sa. Câu “Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A Phủ và Mị đã thành vợ chồng” đã khép lại câu chuyện.


Chủ đề của truyện Vợ chồng A Phủ, theo lời Tô Hoài phát biểu vào năm 1960 là: “Nông dân các dân tộc Tây Bắc bao năm gian khổ chống đế quốc và bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc biệt. Nhìn lướt qua nơi thế lực phong kiến còn đương kéo lùi đất nước lại hàng trăm năm trước”, nhưng “các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Cán bộ của Đảng tới đâu thì các dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời… còn một phút sống vẫn còn chờ đợi, vẫn mong, vẫn tin một ngày bình yên, yên vui của tình yêu và của đất nước”. Hơn 40 năm sau, khoảng năm 1994, Tô Hoài lại nhấn mạnh đến số phận đắng cay của người phụ nữ miền núi, ngoài việc lao động cực nhọc, còn bị mê tín, thần quyền cầm tù trong tinh thần. Nhưng tình yêu và tuổi trẻ đã chiến thắng tù ngục phong kiến và thần quyền. Cuộc kháng chiến của các dân tộc đã đưa học lên con đường chiến đấu bảo vệ hạnh phúc của chính họ. Tác giả đặc biệt lưu ý tới vẻ đẹp của tuổi trẻ và tình yêu của họ, vẻ đẹp của tâm hồn Mị trong giờ khắc cắt dây cứu thoát cho A Phủ và cho chính mình. Có thể coi đó là những gợi ý để đi sâu phân tích nội dung và nghệ thuật tác phẩm.


1. Những thân phận trâu ngựa nơi địa ngục trần gian


Mở đầu tác phẩm, tác giả giới thiệu ngay với người đọc hình ảnh của Mị, một cô gái, con dâu thống lí, mặt buồn rười rượi: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” – Đó là nét mặt muôn thuở của cô dâu trừ nợ, một sản phẩm của chế độ bóc lột nợ lãi miền núi.


Bố mẹ Mị vay tiền của thống lí để làm đám cưới, mỗi năm trả lãi một nương ngô. Mười mấy năm, bố mẹ đẻ ra Mị, Mị đã lớn, rồi mẹ Mị đã chết, bố Mị già yếu mà vẫn không trả hết nợ! Nhà thống lí bắt Mị về làm dâu gán nợ. Sau này A Phủ cũng bị buộc vay nợ nộp phạt và phải ở nợ. “Bao giờ có tiền thì cho về, chưa có tiền thì phải ở làm con trâu con ngựa” cho thống lí. Đời này, “đời con, đời cháu, bao giờ hết nợ thì thôi”. Như vậy là người ở nợ sẽ trở thành trâu ngựa đời đời, không mong gì thoát ra được!


Hai từ “trâu ngựa” trong miệng thống lí Pá Tra nói ra hoàn toàn không phải là nói theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi vào việc cả đêm lẫn ngày. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt… Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.


Chồng Mị không xem Mị là người, “chẳng năm nào cho Mị đi chơi Tết”. Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, nó quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi tắt đèn, khép cửa buồng lại. Hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt đèn khép cửa, dửng dưng, lạnh lùng, không suy nghĩ, không xúc động! Đoạn sau, khi Mị bóp thuốc cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử tàn nhẫn “đạp chân vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có lần trói đứng một người con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói đứng như vậy! Có thể nói đó là một tục lệ đã mất hết nhân tính.
Củng cố cho tục lệ ấy là tư tưởng mê tín dị đoan. Cướp vợ về, trình ma, cho người vay nợ, cũng trình ma. Một thế lực vô hình trói buộc và hù doạ người dân lao động miền núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu, nằm im trong kìm kẹp. Cảnh tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn, cảnh Pá Tra đốt hương lầm rầm khấn ma về nhận mặt người vay nợ vàng tăng thêm không khí khủng khiếp nơi miền núi âm u, ma thiêng nước độc. Tác giả đã khắc hoạ được sâu sắc cảnh địa ngục trần gian, nơi giam hãm những người dân lao động vô tội. Đó là một bản cáo trạng đối với chế độ phong kiến miền núi man rợ, cấu kết với thực dân Pháp. Theo Tô Hoài trong Cát bụi chân ai cho biết, từ năm 1918, người Mèo (Hmông) ở Đông Dương trực thuộc chính phủ Pháp mà đại diện là quan công sứ đầu tỉnh. Người Mèo đặt ra thống lí, thống soái cai trị tự quản. Đó là những chức quan đặt ra từ thời Pháp để kìm kẹp nhân dân. Không có cách mạng không thể giải phóng cho những con người vô tội ấy.


Bị cáo trong bản cáo trạng ấy là A Sử và Pá Tra – cha hắn. Cho vay nặng lãi, coi mạng người như cỏ rác, lợi dụng mê tín thần quyền, cấu kết với quan Tây, cha con Pá Tra là những kẻ hiện thân cho cái ác, cho thế lực phản động. Nhà văn khắc họa không nhiều, nhưng chỉ vài nét mà người đọc không quên được bộ mặt tàn nhẫn, mất hết tính người của chúng.


2. Nhân vật Mị:


Mị là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của truyện Vợ chồng A Phủ . Mị là hiện thân cho tuổi trẻ miền núi bị vùi dập và đã vùng lên tự giải thoát cho mình. Mị là linh hồn của truyện Vợ chồng A Phủ.


Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài giới thiệu Mị là một cô gái lúc nào, làm gì cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là hình bóng của con người bị chà đạp và tuyệt vọng. Nhưng Mị là ai, những ai đứng ngoài hoặc làm khách của nhà thống lí thì không thể hiểu được. Phải là người nghèo ở Hồng Ngài, những người cùng số phận với Mị mới hiểu Mị.


Đời Mị trong tác phẩm có thể chia làm bốn đoạn: Đoạn trước khi làm dâu, đoạn mới về làm dâu, đoạn làm dâu đã quen và đoạn cứu A Phủ rồi bỏ trốn cùng A Phủ. Ta hãy phân tích nhân vật Mị theo bốn chặng đường đời đó.


a) Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ, Mị là người con gái hạnh phúc. Cô yêu đời, thổi kèn lá cũng hay như thổi sáo. Cô đã trải qua những đêm tình mùa xuân say mê. “Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị lại có khát vọng tự do, muốn làm chủ đời mình. Khi nhà Pá Tra muốn lấy cô về trừ nợ, bố Mị chưa kịp có ý kiến gì, thì Mị đã nói ngay: “Con làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.


b) Khi bị cướp về làm dâu, bị trình ma nhà thống lí, Mị đã đau đớn, uất ức. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô không thể chấp nhận thân phận làm nô lệ cho nhà giàu. Cô hái lá ngón (thứ lá độc), hai mắt đỏ hoe, về chào bố để đi chết. Nhưng cô chết thì bố phải trả nợ, mà bố thì đã quá già yếu rồi. Cô không thể chết. “Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất”. Mị khóc cho đời mình, cho số phận mình. Mị ném nắm lá ngón như ném cái khát vọng được giải thoát cho riêng mình! Từ đây, Mị sẽ không nghĩ về mình nữa, cô chỉ sống làm trâu ngựa để trả nợ cho bố mà thôi!


c) Mấy năm sau, khi bố Mị chết, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi”. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa,… con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Mị không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau… mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: “Tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa đi nương bẻ bắp, và dù hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi”. Đời Mị chỉ còn là việc và việc nối tiếp nhau, con người Mị rút lại chỉ là cái công cụ, là con vật để sai khiến. Cha con Pá Tra cũng không coi Mị là người. A Sử không tết nào cho Mị đi chơi. Thấy Mị muốn đi chơi thì A Sử chẳng nói chẳng rằng đem một thúng sợi đay lại trói đứng cô vào cột, xong rồi khép cửa ra đi. Người nhà thấy Mị bị trói đứng cô vào cột, xong rồi khép cửa ra đi. Người nhà thấy Mị bị trói đứng như thế suốt đêm cũng không ai hỏi. Thế mà liền đấy, vừa mới được cởi trói thì cô phải đi hái lá thuốc về xoa bóp cho chồng, nhỡ mệt thiếp đi thì A Sử liền lấy chân đạp vào mặt Mị! Thật không ở đâu mạng sống con người, nhân cách con người bị coi rẻ đến như thế! Cũng không ở đâu con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như thế! Mị cam chịu thân phận của con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng con kín mít trông ra cái cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.


Nhưng đó chỉ là một phần trong con người của Mị.