
Phân tích Giá trị nhân văn trong vợ chồng A Phủ
Phân tích Giá trị nhân văn trong vợ chồng A Phủ
Như trên đã nói Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, có một tính cách muốn làm chủ đời mình. Tính cách ấy không bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị nén xuống để khi có dịp lại bùng lên. Dịp ấy là một mùa xuân Tết đến, mấy năm sau, khi đầu núi có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo thiết tha, bổi hổi, tự nhiên ngồi nhẩm thầm bài hát. Trong không khí đón tết của mọi người “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu của Mị như báo hiệu một hành động nổi loạn chống lại thân phận mà chính Mị chưa ý thức rõ rệt. “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng… nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Cơn say đã giúp Mị quên đi tình cảnh hiện tại để sống với đêm tình ngày xưa. Thời gian ngày trước như hiện về. Mị đang sống với hai con người: con người thực tại, theo quán tính thì “đứng dậy”, “từ từ bước vào buồng”, “ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”; con người tâm linh thì “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”.
Nhói lên trong tâm tư Mị một tình cảm thương xót mình: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”, một tình cảm oán hờn: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”, rồi đột khởi, một tình cảm uất hận: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Thế là con người đích thực tâm linh trong Mị đã sống lại, hoà lẫn với con người thực tại, làm cho cô ở vào trạng thái mộng du, vừa sống trong không gian thực tại, vừa sống với thời gian quá khứ, chập chờn, bất định. Mị thêm mỡ vào đèn, quấn lại tóc, lấy cái váy hoa… như sống trong thực tại, nhưng thực ra thì Mị đang sống trong mơ. Cô không nghe A Sử hỏi, cô cũng “không biết mình đang bị trói”, tai vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi chơi. Chỉ khi vùng bước đi mà không được, tay chân đau không cựa được, cô mới thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Nhưng khuya, nghe tiếng chó sủa xa xa, cô lại quên ngay hiện tại, nín khóc và lại bồi hồi với cuộc sống trong mộng, lúc mơ, lúc tỉnh.
Đây là đoạn văn thật đẹp và thơ mộng. Nó chẳng những khắc họa được cái sức sống mãnh liệt không gì dập tắt được của tuổi trẻ mà còn làm sống lại không khí văn hoá ngày hội đẹp đẽ, đắm say của người dân tộc đã chuyển thành đời sống tâm hồn của nhân vật. Đồng thời đoạn văn cũng thấm đượm một niềm xót thương vô hạn cho số phận người con dâu trừ nợ, và nâng niu những giấc mơ tình tứ đẹp đẽ của một con người. Ngòi bút của tác giả quả đã thâm nhập sâu sắc vào những biến hóa. Ngòi bút của tác giả quả đã thâm nhập sâu sắc vào những biến hóa, đổi thay tinh vi của tình cảm nhân vật, biểu hiện một tấm lòng nhân đạo tha thiết, hiểu thấu những đường nét quanh co, bí ẩn của nó.
d) Đỉnh cao trong cuộc nổi loạn chống lại thân phận trâu ngựa của Mị là đoạn cô đứng lên giải thoát cho A Phủ và cho cả chính mình. Khi A Phủ đã mấy đêm bị trói đứng vào cây cột để chịu tội do hổ ăn mất bò thì trạng thái vô cảm của Mị đang lên đến mức cao nhất. Mị ít ngủ và có thói quen ngồi sưởi lửa đêm. Những khi ngọn lửa bùng lên, Mị thấy mắt A Phủ mở trừng trừng mới biết A Phủ còn sống. “Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi… Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Mị vô cảm với sinh mệnh của A Phủ và cả với chính mình!
Nhưng cái gì đã thức tỉnh lòng trắc ẩn của Mị? Một lần trở dậy, khi “ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Cái giọt nước mắt ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bà đã bị trói chết trong nhà này, và A Phủ thì chỉ đêm mai là chết thôi. Chỉ có trí nhớ bất chợt là làm Mị sống lại. Trí nhớ có sức sống riêng của nó, không phải muốn quên là quên được đâu. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ lại loé lên một cách vô thức, và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị đứng lên lấy con dao nhỏ cắt dây trói cho A Phủ trong một ý thức chấp nhận hi sinh về mình, sẵn sàng thế mạng cho anh nếu bị bắt trói thế vào cột. Đó là giây phút tuyệt đẹp trong đời Mị. Cô trở thành con người cao cả, nên cô không còn cảm thấy sợ!
Hành động đó tuy không thể đoán trước, nhưng hoàn toàn không ngẫu nhiên chút nào. Mị đã từng nguyện làm rẫy trả nợ thay bố, đã từng chịu khổ để làm dâu trừ nợ cho bố, từng dám chết để được giải thoát cho mình, thì sao Mị lại không dám chết để cứu một người vô tội?
Nhưng tính cách Mị tuy có quy luật mà vẫn đầy bất ngờ. Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Phủ vừa chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối, lập tức “Mị cũng vụt chạy ra, băng đi, đuổi kịp A Phủ: A Phủ cho tôi đi. Ở đây thì chết mất!” Lôgic cũng rất chặt chẽ. Mị đã cứu sống A Phủ thì tại sao cô lại không tự cứu mình?! Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến của nhân vật cực kì tự nhiên và sinh động, đầy ngẫu nhiên bất ngờ mà vẫn nằm trong quy luật tất yếu cua sự sống. Mấy giây trước đó, ai có thể nghĩ rằng Mị lại bỏ trốn? Thế mà cô đã vùng chạy theo A Phủ, và không thể khác được! Mị là một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng đương đại Việt Nam. Một trong những bí quyết của nó là nhà văn đã khắc họa quá trình tâm lí đầy biến hoá, ngẫu nhiên, bất ngờ, mà vẫn nằm trong vòng tình lí của sự sống. Nhân vật trở nên có hình khối, đa diện, đầy mâu thuẫn, khi thì mặt này nổi lên, khi thì mặt kia nổi lên, nhưng lúc nào cũng là nhân vật ấy, chứ không phải là nhân vật khác lắp vào.
3. Nhân vật A Phủ :
Trong Vợ chồng A Phủ thì A Phủ là nhân vật phụ ở thời kì Hồng Ngài và sẽ trở thành nhân vật chính trong đoạn đời ở Phiềng Sa. Phần đầu truyện, nhà văn chủ yếu kể chuyện dưới góc nhìn và ý thức của Mị, sang phần sau ngòi bút nhà văn lại đưa đẩy chủ yếu theo góc nhìn của A Phủ.
A Phủ là đứa con mồ côi, nạn nhân của bệnh dịch và nạn đói làm chết người hàng loạt. Mới mười tuổi A Phủ đã bị bán xuống vùng người Thái, nhưng anh lại trốn để lưu lạc đến Hồng Ngài. Quanh năm chỉ làm thuê, A Phủ khỏe nhưng nghèo thì không thể lấy vợ. Có thể nói A Phủ là con người dưới đáy của xã hội miền núi. A Phủ bị đánh đập tàn nhẫn rồi bị biến thành đứa ở trừ nợ, rồi bị trói đứng chờ chết… đều chứng tỏ số phận trâu ngựa của người lao động nghèo vùng cao.
Nhưng A Phủ là một con người đẹp của núi rừng. A Phủ làm khỏe như trâu, chạy nhanh như ngựa, trở thành một niềm mơ ước của các cô gái. A Phủ cũng bị trói buộc bởi mê tín và thần quyền. Sau khi bị đánh đập tàn nhẫn suốt một ngày đêm, A Phủ lê gối đi làm thịt lợn, làm cỗ cho chức việc ăn vạ. Khi Pá Tra bắt A Phủ đóng cọc lấy dây để trói mình, A Phủ vẫn ngoan ngoãn vâng theo. Anh không hề nghĩ đến việc trốn chạy. Và biết chạy đâu cho thoát? Cái đẹp nhất ở A Phủ là tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ mà cuộc sống nô lệ không thể huỷ diệt được. Chính cái sức sống ấy sau này sẽ đưa A Phủ đi theo cách mạng.
4. Nghệ thuật của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ:
– Trên đây đã nói qua nghệ thuật miêu tả quá trình tâm lí của nhân vật Mị. Đó là thành công tiêu biểu nhất của nhà văn.
– Tô Hoài cũng là cây bút sành tả cảnh. Cảnh vật của ông sống động, có hồn và đầy khêu gợi, góp phần biểu hiện đắc lực cho nhân vật. Chẳng hạn đoạn miêu tả mùa xuân:
“Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá, xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Ngôn ngữ tả màu sắc rất phong phú, độc đáo, không thấy có trong từ điển. Nhưng cái chính, nó gợi lên một không khí sống động, đổi thay từng lúc, làm nên cho sự trỗi dậy của tâm hồn Mị về sau.
– Đặc biệt ông sành dùng ngôn ngữ nửa trực tiếp. Lời của tác giả mà như nói lên gan ruột, vô thức của nhân vật, đã vẻ lên đủ loại cung bậc trong tình cảm Mị: lúc tự tin, lúc ai oán, lúc dằn dỗi, uất ức, lúc cả quyết…, chẳng hạn: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Lời văn như lời trầm ngâm, thổn thức của nhân vật.
– Các chi tiết được lựa chọn rất công phu, chúng được miêu tả như khêu gợi, đan cài, cái này gợi ra cái kia, một cách tự nhiên. Đáng chú ý là chi tiết tiếng sáo và chi tiết bếp lửa. Chúng vừa tạo không khí, vừa khêu gợi vào tâm tư nhân vật, vừa miêu tả môi trường. Chi tiết của Vợ chồng A Phủ giàu chất tạo hình của điện ảnh và giàu chất thơ. Đây đúng là một tác phẩm tiêu biểu cho thành tựu văn xuôi của văn học cách mạng.