80s toys - Atari. I still have
Ca dao là gì?

Ca dao là gì?

Đánh giá: 7/10

Ca dao là gì?


I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CA DAO
1.Thuật ngữ và khái niệm


Trong sinh hoạt văn học dân gian, có một bộ phận quan trọng là sinh hoạt ca hát, trong đó tiêu biểu nhất là việc diễn xướng ca dao, dân ca. Ðể chỉ lĩnh vực ca hát dân gian, nhân dân sử dụng các từ: ca, hò, ví, lý, hát giao duyên, hát đối, hát huê tình …


Giới nghiên cứu, các nhà nho sưu tầm, biên soạn gọi những câu hát dân gian là: phong sử, phong dao, ca dao, dân ca, thơ ca dân gian, thơ ca truyền miệng dân gian, thơ ca trữ tình dân gian…


Ca dao là thuật ngữ Hán Việt. Theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc.


Sách Trung Quốc ca dao: ca là bài hát có hòa với nhạc, dao là lời của bài hát đó.


Theo Lịch sử văn học Việt Nam của Bùi Văn Nguyên: ca dao là những bài có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc (thường là lục bát), để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm. Dân ca là những bài hát có hoặc không có chương khúc do nhân dân sáng tác lưu truyền trong dân gian ở từng vùng hoặc phổ biến ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về nhạc.


Thông thường, sự phân biệt giữa ca dao và dân ca là ở chỗ, khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn nói đến dân ca, người ta nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định.


-Một đàn có trắng bay tung,


Bên nam, bên nữ ta cùng cất lên.


Cất lên một tiếng linh đình,


Cho loan sánh phượng, cho mình sánh ta…


(Hát trống quân).


–Trên trời có đám may xanh,


Chính giữa mây trắng chung quanh mây vàng.


Ơi là tình phụ tình phàng.


Chừ là duyên lắm bấy,


Chừ cái dạ em trông chồng, mà không thấy chồng đâu.


Ơi ông chồng, chồng mình ơi !


Chi mà tệ, tệ lắm chàng !


Chi mà bạc, bạc lắm chàng ! …


(Lý vọng phu)


Trong ca dao, đại đa số là tác phẩm trữ tình. Ca dao là loại trữ tình của văn học dân gian. Khái niệm trữ tình dân gian được hiểu trong sự đối lập với khái niệm tự sự dân gian ở góc độ loại hình. Ðối tượng của nó là những sáng tác phản ánh hiện thực đời sống không phải thông qua cốt truyện, sự xung đột của hành động nhân vật màì thông qua sự thể hiện tâm trạng các nhân vật trữ tình.


-Trâu ơi ta bảo trâu này,


Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta …


-Bướm vàng đậu đọt mù u,


Lấy chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn.


-Còn duyên kẻ đón người đưa,


Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.


-Thân cò lặn lội bờ sông,


Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non …


2. Phân loại


Ðồng dao


Ðồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Chủ thể sáng tác diễn xướng chủ yếu là trẻ em thể hiện những cảm nghị, cảm xúc ngây thơ thường nảy ra một cách ngẫu nhiên ở trẻ em. Trẻ em thường vừa chơi trò chơi, vừa ca hát. Ðồng dao được chia thành hai loại: loại gắn với công việc của trẻ em, loại gắn với trò chơi của trẻ em.


-… Nghé ơ … Mẹ gọi tiếng trước,


Cất cổ lên đàng …


Nghé o …Mẹ gọi tiếng sau,


Cất lồng lên chạy …


Có khôn thì đi theo mẹ,


Có khéo thì đi theo đàn,


Chớ đi theo quẩn theo quàng,


Có ngày mất mẹ … nghé ơ …


-Nu na nu nống,


Cái cống nằm trong,


Cái ong nằm ngoài,


Củ khoai chấm mật.


… Con cóc nhảy ra,


Con gà ú ụ,


Nhà mụ thổi xôi,


Nhà tôi nấu chè,


Tay xoè, chân rụt !


-Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,


Ðể trâu ăn lúa gọi cha ới ời,


Cha còn cắt cỏ trên trời,


Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.


Ông thì cầm bút, cầm nghiên,


Ông thì cầm tiền đi chuộc lá đa …


Ca dao lao động


Ca dao lao động là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động. Ðặc điểm cơ bản là có sự gắn bó giữa nhịp điệu lao động và xúc cảm của con người trong lao động.


-Hò lao động nảy sinh trên cơ sở những công việc có sự lắp đi lắp lại động tác lao động, có tính chất tổ chức nhịp điệu lao động.


Hò giật chỉ (hò kéo lưới) Nam Trung Bộ:


-Ra đi sóng biển mịt mù,


Trời cho lưới nặng dô hò kéo lên.


Phần lời này sẽ do một người lĩnh xướng (cái hát), những người khác xô theo (con hát). Trong quá trình diễn xướng của nó, sẽ có sự diễn biến nhanh chậm tùy theo tính chất công việc. Khi lưới còn ngoài khơi, động tác kéo lưới chậm, tiết tấu nhịp điệu câu hát cũng chậm. Khi lưới gần bờ, tốc độ kéo lưới nhanh, nhịp điệu hát, tiết tấu cũng nhanh mạnh hơn.


Ở Hò giã gạo Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và một số địa phương Nam Trung Bộ: câu xô gồm 6 tiếng àơ à à ơ à, thể hiện động tác muốn nhấc cao cái chày lên trước khi đặt nó về chỗ cũ … (Nguyễn Xuân Khoát). Tên các giai đoạn hò cũng tương ứng các giai đoạn của một cuộc giao duyên nam nữ hơn là tính chất công việc lao động: hò mời, hò ân tình, hò xa cách.


Như vậy, ở nhiều bài hò lao động, yếu tố trữ tình luôn đan xen thể hiện chức năng giao lưu tình cảm, có khi lấn áp chức năng phối hợp động tác lao động ban đầu của tiểu loại.


– Bài ca nghề nghiệp nói về nghề nghiệp truyền thống như bài ca về lịch lao động của nghề làm ruộng, nghề chài lưới ….


-Tháng chạp là tiết trồng khoai,


Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.


Tháng ba thì đậu đã già,


Ta đi ta hái về nhà phơi khô.


Tháng tư đi tậu trâu bò,


Ðể ta sắm sửa làm mùa tháng năm …


Ca dao ru con


Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến. Trên mỗi miền có một điệu hát ru riêng biệt phù hợp với giọng nói, ngôn ngữ địa phương. Lời hát ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn. Ca dao ru con rất gần gũi, thể hiện rất rõ chức năng thực hành xã hội của ca dao.


-Ru em em théc cho mùi,


Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.


Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,


Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.


-Con cối đá nằm trong cối đá,


Con chim đa đa đậu nhánh đa đa,


Chồng gần bậu không lấy, bậu lấy chồng xa.


Mai sau cha yếu mẹ già.


Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng ?


– Ca dao nghi lễ, phong tục


-Lạy trời mưa xuống.


Lấy nước tôi uống.


Lấy ruộng tôi cày …


Trong nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh của đời sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân dân.


-Ở gần hay là ở xa,


Cách phủ cách huyện hay là cách sông ?


Xa xôi cách mấy quảng đồng,


Ðể anh bỏ việc bỏ công đi tìm …


Ca dao trào phúng, bông đùa


Ca dao trữ tình.


II. NỘI DUNG CA DAO


1. Ca dao phản ánh lịch sử


Ca dao là những bài ca về lịch sử. Nhưng trước tiên, việc xác định nội dung lịch sử của những câu ca dao cũng là vấn đề cần xem xét.


Tác giả Nguyễn Văn Mại trong Việt Nam phong sử đã trình bày quan điểm của mình trong bài Tựa: Phong là cái gì ? Là thơ ở trong ca dao dân tục vậy. Sử là cái gì ? Là cái gương sáng để khen chê khuyến trừng việc thị phi thiện ác vậy. Tại sao phong mà lại gọi là sử ? Vì nhân đọc dân phong mà biết quốc sử vậy. Với phương pháp biên soạn: đem ý riêng nghị luận bổ thêm vào … lấy phong dao làm gương sáng để chiếu tinh thần quốc sử, lại lấy quốc sử làm căn bản để cắm cái hoa lá phong dao …, tác giả đã có sự gắn kết các câu ca dao vào từng thời kỳ, sự kiện, nhân vật lịch sử. Chẳng hạn:


-Tưởng là chị ngã em nâng,


Chẳng hay chị ngã em mừng em lo.


được tác giả coi là nói về việc Trịnh Tùng tranh cướp lấn quyền của anh là Trịnh Cối sinh ra hiềm khích đánh nhau.


Theo cách thức như vậy, có thể ghép nhiều nội dung lịch sử khác nhau cho cùng một câu ca dao:


-Nước lã mà vã nên hồ,


Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.


được cho là nói về việc sau hai bà Trưng lại có Lý Nam Ðế xưng hùng, chống nhau với nhà Lương, người khác lại cho là nói về việc Lê Hoàn được sự nâng đỡ của Dương Vân Nga mà lấy được ngai vàng nhà Ðinh …


Ca dao lịch sử nói đến lịch sử bằng một thứ ngôn ngữ trực tiếp. Ca dao lịch sử không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá trình diễn biến của nó, mà chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm nhân dân.


Nhân dân nói về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa chống lại ách thống trị của quân Ngô xâm lược hồi thế kỷ III:


-Ru con con ngủ cho lành,


Ðể mẹ gánh nước rửa bành cho voi.


Muốn con lên núi mà coi,


Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.


Túi gấm cho lẫn túi hồng,


Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân.


Về cuộc kháng chiến vĩ đại mười năm chống quân Minh hồi thế kỷ XV gắn với tên tuổi người anh hùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, nhân dân ghi nhớ trong lời ca dao:


-Ai lên Biện Thượng, Lam Sơn,


Nhớ đây Lê Lợi chặn đường quân Minh.


Có những câu ca dao nói đến những sự kiện phản ánh tình hình suy thoái của chính quyền phong kiến.


-Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng,


Bao giờ gánh đá ông Ðăng cho rồi.


nói về sự khốn khổ của nhân dân Thanh Hóa thời Hậu Lê (1600) phải đi phu gánh đá xây sinh từ cho Ðăng quận công Nguyễn Khải.


-Vạn Niên là Vạn Niên nào,


Thành xây xương lính, hào đào máu dân.


Câu ca dao là lời ta thán của nhân dân khi phải chịu cảnh phu phen tạp dịch nặng nề để xây lăng Vạn Niên cho vua Tự Ðức.


Bằng lời lẽ táo bạo nhân dân đánh vào sự thối nát, rối ren của chính quyền thống trị của họ Trịnh cuối thế kỷ XVIII:


-Trăm quan có mắt như mờ,


Ðể cho Huy Quận vào sờ chính cung.


-Ðục cùn thì giữ lấy Tông,


Ðục long, Cán gãy, còn mong nỗi gì !


2. Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống


Những phong tục, tập quán truyền thống trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất, tinh thần của nhân dân được thể hiện rất phong phú trong ca dao.


Ðây là những tập quán trong lao động nông nghiệp, ngư nghiệp:


-Người ta đi cấy lấy công,


Còn tôi đi cấy còn trông nhiều bề,


Trông trời, trông đất, trông mây,


Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.


Trông cho chân cứng, đá mềm,


Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng.


-Cày đồng đang buổi ban trưa,


Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày …


-Chồng chài, vợ lưới, con câu,


Mênh mông bể Sở biết đâu là nhà.


Những cảnh sinh hoạt truyền thống:


-Hôm qua anh đến chơi nhà,


Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường.


Thấy em nằm đất anh thương…


-Aïo đen năm nút viền bâu,


Ai may cho bậu hay là bậu may.


-Mua cau chọn những buồng sai,


Mua trầu chọn những trăm hai lá vàng.


Tai nghe trống chiến trống chầu,


Xếp ba miếng kẹo lộn đầu, lộn đuôi.


3. Phản ánh đời sống tình cảm nhân dân


Ca dao trước hết là tiếng hát về tình yêu của con người, đây là một tình cảm phong phú và rộng lớn.


Những thắng cảnh thiên nhiên mọi miền đất nước, những công trình văn hóa từ bao đời … được khắc họa như một bức tranh rộng lớn trong ca dao, thể hiện sự nhận thức về cương vực tổ quốc, lòng yêu mến, tự hào về đất nước, con người.


-Nhất cao là núi Ba Vì,


Thứ ba Tam Ðảo, thứ nhì Ðộc Tôn.


-Nhất cao là núi Tản Viên,


Nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vường.


-Làm trai cho đáng nên trai,


Phú Xuân đã trải, Ðồng nai đã từng.


-Ðường vô xứ Nghệ quanh quanh,


Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.


Yêu em anh cũng muốn vô,


Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang.


Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,


Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm.


-Rủ nhau chơi khắp Long Thành,


Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai.


Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,


Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay.


Mã Vĩ, hàng Ðiếu, hàng giày,


Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Ðàn.


Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Than,


Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Ngang, hàng Ðồng.


Hàng Muối, hàng Nón, cầu Ðông,


Hàng Hòm, hàng Ðậu, hàng Bông, hàng Bè.