Ca dao là gì?

Ca dao là gì?

Đánh giá: 7/10

Ca dao là gì?


Hàng Thúng, hàng Bát, hàng Tre,


Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà.


Quanh đi đến phố hàng Da,


Trải xem phưòng phố thật là cũng xinh.


Phồn hoa thứ nhất Long Thành,


Phố giăng mắc cửi đường quanh bàn cờ.


Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,


Bút hoa xin chép vần thơ lưu truyền.


Sự giàu có của những sản vật tự nhiên, và những sản phẩm do bàn tay sáng tạo của con người đã làm nên nét đẹp quê hương có mặt rất nhiều trong ca dao:


-Muốn ăn mật rú vô Trèn,


Muốn xơi ốc đực thì lên Thác Ðài.


-Lụa này thật lụa cố đô,


Chính tông lụa cống các cô đang dùng.


-Bến Tre giàu mía Mõ Cày,


Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.


Ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ có nội dung phản ánh được mọi biểu hiện của tình cảm lứa đôi trong tất cả những chặng đường của nó: giai đoạn gặp gỡ, ướm hỏi nhau, giai đoạn gắn bó trao gửi những lời thề nguyền, giai đoạn hạnh phúc với những niềm ước mơ, những nỗi nhớ nhung hoặc nỗi đau khổ với những lời than thở, oán trách …


-Hôm qua tát nước đầu đình,


Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.


Em được thì cho anh xin,


Hay là em để làm tin trong nhà.


Aïo anh sứt chỉ đường tà,


Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.


Aïo anh sứt chỉ đã lâu,


Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.


Khâu rồi anh sẽ trả công,


Ít nữa lấy chồng anh sẽ giúp cho.


Giúp em một thúng xôi vò,


Một con lợn béo, một vò rượu tăm.


Giúp em đôi chiếu em nằm,


Ðôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.


Giúp em qua tám tiền cheo,


Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.


-Quạt này anh để che đầu,


Ðêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này.


Ước gì chung mẹ, chung thầy,


Ðể em giữ cái quạt này làm thân.


Rồi ra chung gối chung chăn,


Chung quần chung áo, chung khăn đội đầu.


Nằm thì chung cái giường Tàu,


Dậy thì chung cả hộp trầu ống vôi.


Ăn cơm chung cả một nồi,


Gội đầu chung cả dầu hồi nước hoa.


Chải đầu chung cái lược ngà,


Soi gương chung cả ngành hoa giắt đầu…


-Muốn khuây dạ nỏ chịu khuây,


Sự đâu đem đổ dạ này mê man.


-Buổi mai em xách cái thống,


Em xuống dưới ao em bắt con cua,


Em bỏ vô trong cái thống;


Hắn kêu cái rỏng, hắn kêu cái rảnh,


Hắn kêu một tiếng chàng ôi !


Chàng đà yên phận tốt đôi,


Em nay lẻ bạn mồ côi một mình.


-Ngọn lang trắng, ngọn vắn, ngọn dài,


Rau tần ô, ngã dọc, ngã ngang,


Trái dưa gang sọc đen, sọc trắng,


Ngọn rau đắng, trong trắng ngoài xanh.


Chim quyên uốn lưỡi trên nhành,


Bởi em ở bạc, ông trời nào đành để em.


-Trèo lên cây bưởi hái hoa,


Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân …


Một bộ phận bài ca này còn mang thêm ý nghĩa xã hội, những bài ca nói đến sự trắc trở trong tình yêu đôi lứa:


-Hai ta là bạn thong dong,


Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.


Bởi chưng thầy mẹ nói ngang,


Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.


-Vắn tay với chẳng đặng kèo,


Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng đặng em.


Ca dao trữ tình thể hiện rất phong phú những biểu hiện của tình cảm gia đình: tình cảm vợ chồng, tình cảm cha mẹ và con cái, tinh cảm anh em … phản ánh nhiều mặt đời sống tình cảm của nhân dân.


Ðây là hình ảnh một gia đình truyền thống:


-Sáng trăng trải chiếu hai hàng,


Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.


Tình nghĩa gắn bó, thủy chung, tiếng nói đạo nghĩa của nhân dân:


-Muối ba năm muối đương còn mặn,


Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay,


Ðạo nghĩa cang thường chớ đổi đừng thay,


Dẫu có làm nên danh vọng, rủi có ăn mày ta cũng theo nhau.


Những bài ca tuyệt hay về tình mẹ con:


-Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,


Miệng nhai cơm bún, lưỡi lừa cá xương.


-Mẹ già ở túp lều tranh,


Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con.


4. Phản ánh đời sống xã hội cũ


Ca dao trữ tình lấy đề tài trong đời sống xã hội khắc họa một bức tranh phong phú về hiện thực. Ca dao phản ánh những tâm trạng đau khổ, chua xót, uất ức, thái độ phản kháng của nhân dân chống ách thống trị phong kiến.


-Gánh cực mà đổ lên non,


Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo.


-Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình …


-Con cò mà đi ăn đêm,


Ðụng phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.


Ông ơi ông vớt tôi nao,


Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.


Có xáo thì xáo nước trong,


Ðừng xáo nước đục, đau lòng cò con.


-Con vua thì lại làm vua,


Con sãi ở chùa lại quét lá đa,


Bao giờ dân nổi can qua,


Con vua thất thế lại ra quét chùa.


Ca dao phản ánh khá nổi bật đời sống, tâm trạng người phụ nữ trong xã hội cũ. Ðây cũng là những tâm trạng uất ức, đau khổ trước những bất công xã hội áp đặt đối với người phụ nữ.


-Thân em như hạt mưa sa,


Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày.


-Thân em như giếng giữa đàng,


Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.


-Lênh đênh chiếc bách giữa dòng,


Thương thân goá bụa phòng không lỡ thì.


Gió đưa cây trúc ngã quỳ,


Ba năm chực tiết còn gì là xuân !


Người phụ nữ trong ca dao không cam chịu với địa vị thấp kém, phụ thuộc:


-Chồng con là cái nợ nần,


Chẳng thà ở vậy nuôi thân béo mầm.


-Không chồng mà chửa mới ngoan,


Có chồng mà chửa thế gian sự thường.


Những bài ca về người lính và người vợ lính phản ánh sự phản kháng mạnh mẽ của nhân dân trước những cuộc chiến tranh phong kiến xảy ra liên miên suốt bốn thế kỷ từ đầu thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.


Ðây là bài ca về người lính thú với tâm trạng u uất, buồn khổ:


-Ba năm trấn thủ lưu đồn,


Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.


Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,


Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai !


Miệng ăn măng trúc, măng mai,


Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng ?


Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng.


Bài ca về người vợ lính sáng lên hình ảnh người phụ nữ với đức hy sinh, tinh thần đấu tranh chống phong kiến.


-Cái cò lặn lội bờ sông,


Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.


Nàng về nuôi cái cùng con,


Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng.


-… Chém cha cái giặc chết hoang,


Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng.


Gánh từ xứ Bắc, xứ Ðông,


Ðã gánh theo chồng lại gánh theo con.


5. Chứa đựng tiếng cười trào phúng


Ca dao trào phúng và ca dao trữ tình có mối quan hệ khăng khít nhau. Ca dao trào phúng thể hiện tính thích trào lộng của nhân dân. Phạm vi đề tài của ca dao trào phúng cũng rất rộng rãi. Các hiện tượng trái tự nhiên, không bình thường có thể trở thành đối tượng của nó.


-Chồng còng mà lấy vợ còng,


Nằm phản thì chật, nằm nong thì vừa.


-Lỗ mũi em mười tám gánh lông,


Chồng yêu chồng bảo tơ hồng trời cho.


Ðêm nằm thì ngáy o o,


Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.


Ði chợ thì hay ăn quà,


Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm …


Phần lớn ca dao trào phúng có nội dung xã hội. Bằng tiếng cười trào phúng, nhân dân phê phán, đả kích giai cấp thống trị, những hiện tượng không bình thường, phi lý, những tệ trạng … thể hiện khát vọng của nhân dân về một cuộc sống tốt đẹp hơn.


Những bài thách cưới có tính chất trào phúng phê phán những tục lệ thách cưới, nộp cheo, là những hủ tục trong chế độ hôn nhân xưa:


-Em về thưa với mẹ cha,


Bắt lợn đi cưới bắt gà đi cheo.


Ðầu lợn lớn hơn đầu mèo,


Làng ăn không hết làng treo cột đình.


Ông quan đánh trống thình thình,


Quan viên mũ áo ra đình ăn cheo.


-Cưới nàng anh toan dẫn voi,


Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn.


Dẫn trâu, sợ họ máu hàn,


Dẫn bò, sợ họ nhà nàng co gân.


Miễn là có thú bốn chân,


Dẫn con chuột béo, mời dân, mời làng.


-Chàng dẫn thế em lấy làm sang,


Nỡ nào em lại phá ngang như là …,


Người ta thách lợn thách gà,


Nhà em thách cưới một nhà khoai lang;


Củ to thì để mời làng,


Còn như củ nhỏ họ hàng ăn chơi.


Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi,


Ðể cho con trẻ ăn chơi giữ nhà…


Nhân dân hướng mũi nhọn đả kích vào tầng lớp thống trị phong kiến tập trung vào một số đối tượng rất quen thuộc trong văn học dân gian: vua chúa, các loại quan văn, quan võ, các loại thầy cúng, thầy bói, sư giả hiệu …


-Vua Lê ba mươi sáu tàn vàng,


Thấy gái đi đàng ngó ngó nom nom.


Cô nào óng ả son son,


Vua đóng vào hòm đem trẩy về kinh.


-Em là con gái đồng trinh,


Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè.


Ông Nghè sai lính ra ve,


Trăm lạy ông nghè ông đã có con.


Có con thì mặc có con,


Thắt lưng cho giòn theo võng cho mau.


-Cậu cai nón dấu lông gà,


Cổ tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.


-Cậu cai buông áo em ra


Ðể em đi chợ kẻo mà chợ trưa …


-Chập chập cheng cheng,


Con gà trống thiến để riêng cho thầy.


Ðơm xôi thì đơm cho đầy,


Ðơm mà vơi đĩa thì thấy không ưa.


-Hòn đất mà biết nói năng,


Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.


Từ sự phê phán những biểu hiện cụ thể, đây còn là quan điểm của nhân dân về vấn đề tôn giáo:


-Ai lên Hương Tích Chùa Tiên,


Gặp cô sư bác, anh khuyên đôi lời:


Ðem thân làm cái kiếp người,


Tu sao cho trọn nước đời mà tu ?


III. NGHỆ THUẬT CA DAO


1. Thể thơ


Ca dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau.


Thể lục bát gồm câu sáu, câu tám, thể thơ này rất phổ biến trong ca dao.


Thể song thất lục bát gồm hai câu bảy, câu sáu, câu tám, được sử dụng không nhiều.


Thể vãn thường gồm một câu có bốn hoặc năm chữ, rất đắc dụng trong đồng dao.


Ngoài ra ca dao cũng sử dụng hợp thể là thể thơ gồm từ bốn, năm chữ thường kết hợp với lục bát biến thể.


-Anh nói với em,


Như dao chém xuống đá,


Như nhựa chém xuống đất,


Như mật rót vào tay.


Bây chừ anh đã nghe ai,


Bỏ em giữa chốn thuyền chài rứa ri.


Các thể thơ phong phú diễn tả được nhiều tư tưởng tình cảm của nhân dân.


2. Cấu tứ


Các kiểu cấu tứ của ca dao khá phong phú.


Cấu tứ theo lối ngẫu nhiên không có chủ đề nhất định.


-Cái sáo mặc áo em tao,


Làm tổ cây cà,


Làm nhà cây chanh…


Cấu tứ theo lối đối thoại khá phổ biến trong ca dao.


-Bây giờ mận mới hỏi đào,


Vườn hồng đã có ai vào hay chưa ?


Mận hỏi thì đào xin thưa,


Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.


Cấu tứ theo lối phô diễn về thiên nhiên là một kiểu cấu tứ quen thuộc trong ca dao.


-Một đàn cò trắng bay tung,


Bên nam bên nữ ta cùng hát lên.


-Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu,


Anh thấy em nhỏ xíu anh thương.


3.