
Dế chọi Bồ Tùng Linh
Dế chọi Bồ Tùng Linh
Tôi từ tuổi trẻ thôi sự học khoa cử, trong lúc vô liêu thường hay xem Liêu Trai, chỉ thấy chuyện vui mà văn hay, đủ cả một tập sách tiêu khiển có giá trị. Mới đây, dịch bộ sách đó, nhân xem lại và nhận kĩ, thời thấy có hương vị hơn xưa, thấy rằng :
Bộ Liêu Trai của Tàu, cùng với quyển Truyện Kiều của ta, tuy văn xuôi, văn vần khác nhau, mà cái tài học của tác giả, cái giá trị của văn chương thực có giống nhau lắm. Hai tác giả cùng bực học rộng, mà văn có đại tài. Cụ Nguyễn Du viết quyển Kiều, bao nhiêu câu lục bát, mà không câu nào phảng phất với câu nào. Ông Bồ Tùng Linh viết Liêu Trai, bao nhiêu truyện dài, ngắn, mà không truyện nào phảng phất với truyện nào, điển tích dẫn dùng, lời lẽ gọt chuốt, đều hoành bác mà tinh thông. Cho nên đều được người đời mến chuộng về lâu dài, là một lẽ xứng đáng. Tác giả Liêu Trai là người ở Trung Quốc, sinh vào đời Mãn Thanh, chắc có chỗ u phẫn mà mượn tập truyện đó để khiển hoài ; cũng như cụ Nguyễn Du ta là cố thần nhà Lê, mà bùi ngùi vì thân thế xuất xứ vậy.
Riêng nói về bộ Liêu Trai này, chuyện hồ quỷ chiếm có quá nửa, minh bạch là câu chuyện bịa đặt, mà cái hay cứ hay. Cái hay của Liêu Trai, như nghìn vạn cảnh trạng ở nhân gian, đều thu vào những phiên ảnh rất nhỏ bé, mà cảnh nào tình ấy, nhận cho kĩ, sẽ thấy được rõ ràng. Lại những ý tưởng quang minh chính đại, những kiến thức khoáng đạt cao siêu, đều tuỳ thế chuyện, mượn mồm người, mà phát ra ngôn luận, đặt làm văn chương. Cho nên cái hay không những chỉ là đáng yêu mà phần đáng trọng rất không ít. Cho nên không thể coi như một bộ tiểu thuyết tầm thường, mà cũng không phải như Chức Nữ, Hằng Nga, chỉ thanh thú mà không có thiết đến nhân thế. ấy là cái giá trị xác thực của Liêu Trai...
(Tư liệu văn học 10, tập 2, NXB Giáo dục, 2001)
2. Đọc truyện Tịch Phương Bình – một truyện tiêu biểu cho loại truyện vạch trần chế độ chính trị hà khắc, đả kích quan tham ô lại, cường hào ác bá, bênh vực những người bị oan ức bị bức hại,… của Bồ Tùng Linh :
Tịch Phương Bình, người Đông An, cha tên là Liêm, thẳng tính nhưng nóng vụng ; nhân cùng một người nhà giàu họ Dương trong làng có chuyện hiềm khích. Họ Dương chết trước, mấy năm sau Liêm mắc bệnh nguy kịch, bảo mọi người rằng :
– Lão Dương nay đang lo lót ở dưới âm ti(1), sai người bắt tôi.
Được một chốc, mình mẩy tấy đỏ lên, kêu gào mấy tiếng rồi chết.
Tịch buồn thảm, không ăn, nói :
– Cha tôi thực thà, chất phác, nay bị loài quỷ dữ lăng nhục, tôi phải đánh đường xuống đất thân oan cho cha mới được.
Từ bấy giờ không nói năng gì nữa, lúc thì ngồi, lúc lại đứng, tình trạng giống hệt như người ngây, thì ra hồn đã lìa khỏi xác.
Thoạt đầu, Tịch cảm thấy mình ra khỏi cửa, không biết đi đâu. Nhìn trên đường thấy có người đi, bèn hỏi thăm đâu là thành quách của ấp. Một lát, vào đến thành, thì cha mình đã bị giam vào ngục. Đi đến cửa ngục, xa xa trông thấy cha đang nằm dưới thềm, có vẻ khổ sở lắm. Ngước lên nhìn thấy con, nước mắt bỗng trào ra, liền gọi :
– Bọn lại ngục đứa nào cũng nhận hối lộ và được rỉ tai trước cả, nên ngày đêm đánh đập tra khảo, đùi vế giập nát đến tệ hại.
Tịch nổi nóng, lớn tiếng mắng quân canh ngục :
– Nếu như cha ta có tội thì đã có phép vua, đồ quỷ chết dấp chúng bây, há lại có thể hoành hành như thế được sao ?
Mắng rồi bèn trở ra, kiếm giấy bút làm đơn. Vừa gặp phiên hầu buổi sớm của Thành hoàng, chàng đệ đơn lên kêu oan. Họ Dương sợ, đút lót từ trong đến ngoài rồi mới ra công đường đối chất. Thành hoàng lấy cớ lời tố cáo của Tịch không có bằng cứ, chẳng coi ra gì cả. Tịch uất ức mà không còn chỗ nào để giãi bày, bèn cứ mò mẫm mà đi, chừng hơn trăm dặm thì đến quận, đem tình trạng quan lại, chức dịch tư túi trình lên viên quan đầu quận. Việc trì hoãn đến nửa tháng mới được đem ra xử. Quan quận cho Tịch một trận đòn, rồi phê vào đơn, trả về cho Thành hoàng xét lại án.
Tịch trở về ấp cũ, chịu đủ mọi thứ gông cùm, đau đớn, oan ức không biết trút đi đâu cho hả. Thành hoàng sợ chàng lại kiện nữa, bèn sai nha dịch áp giải về nhà. Nha dịch đưa đến cổng mới bỏ đi. Tịch không chịu vào, lại trốn xuống cõi âm, đến tận phủ Diêm Vương, tố cáo tội tham tàn của quận và ấp. Diêm Vương lập tức cho bắt cả hai đến đối chất. Hai viên quan mật sai người tâm phúc đến thương thuyết với Tịch, hứa biếu Tịch ngàn vàng. Tịch không nghe. Mấy hôm sau, chủ nhà trọ nói với Tịch rằng :
– Anh giữ ý khăng khăng quá, quan phủ đã cầu hoà mà cứ cố chấp không nghe. Nay nghe đâu người nào cũng đều có thư riêng dâng lên Diêm Vương, sợ hỏng việc mất.
Tịch cho là lời đồn vu vơ ngoài đường, cũng chưa tin lắm. Chốc lát có người mặc áo đen gọi vào hầu.
Lên giữa công đường, trông thấy Diêm Vương mặt có sắc giận không cho nói năng gì, truyền đánh ngay hai mươi roi. Tịch xẵng giọng hỏi :
– Kẻ tiểu nhân này có tội gì ?
Diêm Vương tảng lờ như không nghe. Tịch chịu đòn, kêu to lên :
– Phải đòn là đáng lắm ! Ai bảo mi không có tiền !
Diêm Vương càng giận, truyền đặt lên giường lửa. Hai tên quỷ liền tóm hai chân Tịch. Trông sang thềm phía đông thấy có chiếc giường sắt, lửa đốt ở phía trước, cả mặt giường đều đỏ rực. Bọn quỷ cởi áo Tịch ra, bắt chàng đặt lên giường đưa tay lăn qua lăn lại. Đau buốt, xương thịt cháy đen, khổ không chết đi được. Ước chừng hơn một giờ, quỷ bảo :
– Đủ rồi !
Bèn đỡ chàng dậy, bắt xuống giường mặc áo, may còn tập tễnh mà đi được. Lại dẫn đến trước công đường. Diêm Vương hỏi :
– Còn dám kiện nữa không ?
Tịch đáp :
– Oan to chưa giải, tấc lòng này vẫn không nguội lạnh ! Nếu nói rằng không kiện nữa thì chính là lừa dối đại vương thôi. Nhất định còn kiện nữa !
– Lấy lời lẽ gì mà kiện ?
Tịch đáp :
– Những cái thân tôi phải chịu đây đều là lời lẽ cả đấy.
Diêm Vương lại nổi giận, hạ lệnh dùng cưa, xẻ thân thể chàng. Hai tên quỷ liền kéo đi, nhìn thấy một cây gỗ dựng đứng cao hơn tám chín thước, lại có hai tấm ván đặt ngửa ở phía dưới ; từ trên xuống dưới máu còn đọng bê bết. Đang sắp chịu trói, bỗng trên công đường có tiếng gọi to :
– Họ Tịch kia !
Hai tên quỷ lại điệu chàng về ngay chỗ cũ. Diêm Vương lại hỏi :
– Còn dám kiện nữa không ?
Đáp rằng :
– Nhất định kiện nữa !
Diêm Vương truyền lệnh bắt ra cưa mau. Đến dưới cây gỗ, bọn quỷ bèn dùng hai mảnh ván kẹp Tịch vào giữa, rồi trói vào thân cây. Lưỡi cưa vừa hạ xuống, đã cảm thấy đỉnh đầu tách dần ra, đau không sao chịu nổi, nhưng cũng cố chịu đau không kêu. Nghe bọn quỷ nói với nhau :
– Gan thay anh chàng này !
Lưỡi cưa đưa xoèn xoẹt, xuống dần đến dưới ngực. Lại nghe một tên quỷ nói :
– Người này chí hiếu, không có tội gì, hãy cho chệch lưỡi cưa đi một tí, đừng để hại đến quả tim của hắn.
Liền cảm thấy lưỡi cưa cong chênh chếch mà ấn xuống, càng đau đớn khổ sở gấp bội. Chỉ giây lát, nửa thân thể đã tách rời. Vừa cởi ván ra, hai mảnh thân đều đổ ụp. Quỷ lên công đường lớn tiếng trình báo. Trên công đường truyền gọi, bảo khớp thân thể lại, rồi lên bái kiến. Hai tên quỷ tức thì đưa tay đẩy, khiến cho hai mảnh thân hợp ngay lại, rồi kéo dậy bảo đi. Tịch cảm thấy ở chỗ đường cưa đã dính liền đau nhức nhối chừng như lại muốn xẻ ra, đi nửa bước lại ngã dúi. Một tên quỷ rút ngay dải thắt lưng bằng dây tơ của mình ra, trao cho chàng, nói :
– Tặng cái này, để đền đáp lòng hiếu của ngươi.
Chàng nhận lấy đeo vào thì thân thể đột nhiên khoẻ khoắn trở lại không còn nhức nhối khổ sở chút nào. Bèn lên công đường sụp lạy. Diêm Vương lại vẫn hỏi như trước. Tịch sợ lại phải tái diễn những cực hình tàn ác, bèn đáp rằng không kiện nữa. Diêm Vương lập tức ra lệnh đưa chàng trở về dương gian(1). Sai nha đưa ra khỏi cửa bắc chỉ vẽ đường về cho chàng rồi quay đi. Tịch nghĩ các công sở dưới cõi âm lại còn mờ ám hơn ở trên trần thế, nhưng không còn đường nào để kêu thấu đến tai Thượng Đế thì biết làm gì được ! Thế gian vẫn truyền rằng có thần Nhị Lang ở Quán Khẩu là thân thuộc về bên ngoại của Thượng Đế. Vị thần này công minh chính trực, đến đấy kêu, tất có linh ứng khác thường. Lại mừng thầm hai tên sai nha đã đi rồi, bèn quay sang hướng nam. Giữa lúc đang rong ruổi, bỗng có hai người đuổi theo nói :
– Đại vương ngờ ngươi không chịu về, nay quả thế thực.
Rồi tóm lấy chàng, đưa trở lại yết kiến Diêm Vương. Bụng nghĩ chắc Diêm Vương sẽ càng bực bội hơn, tai vạ lại càng thảm khốc, ấy thế mà Diêm Vương không hề có sắc giận, chỉ bảo Tịch rằng :
– Lòng hiếu của người thực chí thành. Những nỗi oan của cha ngươi ta đã rửa sạch rồi. Nay được đầu thai(2) vào nhà giàu sang, chẳng cần ngươi phải kêu nài làm gì nữa. Nay đưa ngươi về, cho ngươi một sản nghiệp đáng giá nghìn vàng, lại ban cho tuổi thọ thì đã mãn nguyện hay chưa ?
Bèn ghi vào sổ, đóng ấn lớn vào, sai lính đưa cho chàng nhìn tận mắt. Tịch tạ ơn lui xuống. Quỷ đưa chàng trở ra. Ra đến đường đuổi và mắng rằng :
– Thằng giặc gian hoạt này luôn luôn tráo trở, khiến cho người ta phải chạy ngược chạy xuôi muốn chết ! Nếu còn tái phạm thì phải bắt bỏ vào cối xay lớn, nghiền cho nát nhừ ra.
Tịch trừng mắt quát :
– Đồ ma quỷ gì thế ? Tính ta chịu được dao cưa, nhưng không chịu được roi vọt đâu. Xin hãy trở lại yết kiến đại vương, nếu vương cho ta tự về lấy thì cũng chẳng việc gì phải vất vả các anh đưa tiễn.
Nói rồi liền chạy trở lại. Hai tên quỷ sợ, dùng lời ôn tồn khuyên dỗ chàng về. Tịch cố đi thật chậm rãi, đi được vài bước lại nghỉ ở bên đường. Quỷ nuốt giận không dám nói gì nữa. Chừng nửa ngày, đến một thôn kia, có ngôi nhà cánh cửa nửa mở nửa khép, quỷ kéo chàng cùng ngồi xuống. Tịch nhân tiện ngồi tựa trên bậc cửa. Hai tên quỷ thừa lúc chàng không đề phòng, đẩy luôn chàng vào bên trong cửa.