XtGem Forum catalog
Tác giả Trần Tế Xương

Tác giả Trần Tế Xương

Đánh giá: 7/10

Tác giả Trần Tế Xương

Vì nghèo quá, ông đã tính đến chuyện đi tu nhưng không phải tu vì đạo lý mà tu vì tấm áo (Nghèo), rồi nghĩ đến chuyện làm mứt rận đãi gai đình trong ngày tết, có những ý nghĩ ngông nghênh, hợm hĩnh ( Mứt rận), hoặc nhiều lúc ông đâm ra chán chường tuyệt vọng:


Ngủ quách sự đời thây đứa thức.


Bên chùa chú trọc đã khua chuông.


( Ðêm hè)


Vốn là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ vẫn có thể cười cợt, vẫn bông đùa:


Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo


Tiền bạc trong kho chữa lĩnh tiêu 


Ðúng là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà tiêu? Chính cái nghịch lý này đã hình thành nên tính cách của Tú Xương.


 2.2. Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước: 


– Tình cảm của Tú Xương đối với nhân dân:


Ðối với người nghèo như những người học trò, những người nông dân chân lắm tay bùn (Thề với ăn xin)  . . . những dòng thơ của Tú Xương chứa chan tình cảm và đầy lòng ưu ái (Ðại hạn) 


Hoặc ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xương càng thể hiện rõ hơn:


Ỳ ào tiếng học nghe không rõ


Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu

Ông lão nhà quê tan tản dậy,


Bảo con đem đó, chớ đem gầu . . . 


Ðối với người phụ nữ, hình ảnh họ hiện lên thật đáng thương, họ không những khổ sở về vật chất mà còn bị đau đớn về mặt tinh thần Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xương viết về vợ: 


Quanh năm buôn bán ở mom sông


Nuôi đủ năm con với một chồng


Lặn lội thân cò khi quãng vắng,


Eo sèo mặt nước buổi đò đông


Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công


Cha mẹ thói đời ăn ở bạc


Có chồng hờ hững cũng như không. 


Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước thường triền miên, day dứt:


Nhân tài đất Bắc nào ai đó?


Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà


( Vịnh khoa thi Hương năm Ðinh dậu) 


Nhà thơ thường thao thức suốt đêm dài để lặng lẽ suy tư và thấy được cái heo hút Vắng lặng của đêm trường:


Ðêm sao đêm mãi tối mò mò,


Ðêm đến bao giờ mới sáng cho.


Ðàn trẻ u ơ chừng muốn dậy,


Ông già thúng thắng vẫn đang ho.


Ngọn đèn rình trộm khêu còn bé,


Tiếng chó kinh người cắn vẫn to.


Hàng xóm bốn bề ai dậy chửa,


Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho.


( Ðêm dài) 


Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mình:


Kìa cái đêm nay mới gọi đêm


Mắt giương không ngủ bũng không thèm


Tình này ai thấu cho ta nhỉ


Tâm sự năm canh một bóng đèn. 


Ðiểm sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là ở tình này. Ðó là tình cảm của ông đối với quê hương đất nước. 


Nỗi đau khi nhìn thấy đất nước đổi thay mà bản thân ông thì không làm gì thay đổi thời cuộc ( Sông lấp). Bài thơ chứng tỏ Tú Xương vẫn là người nặng tình đời và tha thiết với cuộc sống. Mặc dù có lúc ông đâm ra bối rối, lạc lõng, mất phương hướng trước bao biến đổi của thời cuộc:


Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt,


Ðợi nước càng thêm tóc bạc phơ


Ðường đất xa khơi ai mách bảo?


Biết đâu mà ngóng dến  bao giờ?


( Lạc đường) 


Lòng yêu nước của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xương đối với những người có tài, có đức ra cứu đời, giúp nước:


Vá trời gặp hội mây năm vẻ


Lấp bể ra công đất một hòn

( Gửi cụ thủ khoa Phan)


 Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạnh như bao nghĩa sĩ yêu nước khác nhưng ông có cảm tình nồng hậu đối với những người làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu Vá trời, lấp bể đã đến với Tú Xương bằng tất cả sự kính mến, khâm phục.


 





3. Triết lý sống của Tú Xương giữa thời buổi loạn ly của đất nước:

 






Triết lý sống của Tú Xương đặc biệt không giống ai giữa thời buổi loạn ly. Ông sống giả câm, giả điếc, làm ngơ trước dư luận. Sống như ông phải có kiểu cách riêng, giống như hình ảnh của chú Mán ở Nam Ðịnh:


Khi để chỏm, lúc cạo đầu


Nghêu ngao câu hát nửa tàu, nửa ta


Chẳng đội nón chịu màu da dãi nắng,


Chẳng nhuộm răng để trắng dễ cười đời,


Chốn quyền môn lòn cúi mặc ai,


Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết.


( Chú Mán) 


Thái độ sống khác của Tú Xương có phải chăng là thái độ chống đối của nhà thơ trước thời cuộc? Ông không muốn hòa vào cuộc sống ngột ngạt không lối thoát này, không muốn hợp tác với cái văn minh trong thời kỳ nước mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi người đang tìm cách chen chân vào thì Tú Xương tách khỏi nó. Từ đó thể hiện sự yêu thích tự do, không chịu cúi lòn làm nô lệ. 


Triết lý sống của Tú Xương nếu đem đặt bên cạnh triết lý sống của các nhà chiến sĩ yêu nước là xả thân vì nước lúc bấy giờ thì triết lý sống của Tú Xương có phần nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng nói chung, triết lý sống của ông đã phần nào phản ảnh được tâm trạng của lớp người sống trong thời buổi không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc. 


III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:





1.      Kết cấu:

 






 1.1.Thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú.


Có bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng. Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Tú Xương sử dụng tiếng cười làm vũ khí. Ở Tú Xương không có cái nhàn nhạt, cái lưng chừng, cười là cười phá, chửi là chửi độc, chua chát đến ứa mật, ứa máu. 


Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thường độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Tú Xương đã quàng vào cổ ông Hàn nọ ( Vốn làm nghề nấu rượu) những xâu, chai, lọ, vung, nồi lổn nhổn:


Hàn lâm tu soạn kém gì ai?

Ðủ cả vung nồi, cả cóng chai


( Ðưa ông hàn) 


Cái tài tình của Tú Xương là chợp đúng cái thần của sự vật bằng một vài nét điển hình, rồi với cách nói thẳng thừng, táo bạo và hài hước của mình, ông phơi bày cái lõi của sự thật cho mọi người xem có khi ở câu đầu:


Lúc túng toan lên bán cả trời


Trời rằng thằng bé nó hay chơi


( Tự cười mình) 


Có khi ở cuối câu:


Cụ Xứ có cô con gái đẹp


Lăm le xin bố cưới làm chồng


( Ði thi nói ngông)


Có khi mượn lối chơi chữ:


m không ra ấm, ấm ra nồi


Ấm chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi

( Bỡn ông ấm Ðiềm) 


Có lúc nhân cái mồm tu hú của đối tượng mà hạ một ý thật lạ lùng:


Cậu này ắt hẵn hay nghề sáo,


Dây vũ dây văn vụng ngón đàn


( Thông gia với quan) 


Hoặc mở đầu bài thơ Ðể vợ chơi nhăng là đánh thẳng đối tượng là anh chồng ngu”:


Thọ kia mày có biết hay chăng


Con vợ mày kia xiết nói năng


Vợ đẹp của người không giữ được


Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng 

Nhưng mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt:


Ra đường đáng giá người trinh thục

Trong bụng sao mà những gió trăng,


Mới biết hồng nhan là thế thế,


Trăm năm, trăm tuổi, lại trăm thằng. 


Có thể nói, Tú Xương đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trước hết vì tiếng cười của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cười trào phúng của Tú Xương rất chắc, hiệu quả cao.


 1.2.Thơ trữ tình của Tú Xương:


 Lời thơ nhuần nhuyễn, ý thơ gần gũi, sâu lắng.


Các bài thơ tiêu biểu Ðêm hè, Ngẫu hứng, Sông lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ bạn phương trời . . . thể hiện cái sâu xa trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân tộc, tuy có giới hạn nhưng rất đáng quý, đã hình thành nên tính cách Tú Xương. 


Ông có những bài thơ thể hiện tình cảm lãng mạn cũng khá hiện đại:


Em gửi cho anh mãnh lụa đào


Không biết rằng em bán thế nào


( Tặng người quen) 


Ðề tài thơ trữ tình của Tú Xương tuy không phong phú và đa dạng như thơ trào phúng nhưng cũng rất sâu sắc và đậm đà. Nhà thơ sử dụng nhiều chi tiết từ  cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động, nhiều chi tiết xác thực như bản thân đời sống . Hình ảnh bà Tú được tái hiện bằng những nét rất thực:


Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.


( Thương vợ) 


Bài thơ Nhớ bạn phương trời đã đi sâu vào thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc  trữ tình của nhà thơ đối với nhà cách mạng Phan Bội Châu.


Ta nhớ người xa cách núi sông,


Người xa, xa lắm nhớ ta không?


Sao đang vui vẻ ra buồn bã


Vừa mới quen nhau đã lạ lùng


Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng


Khi riêng riêng đến cả tình chung


Tương tư lọ phải là trai gái,


Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng. 


1.3.Sự kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ tình: 


Rất độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ không gò bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng như trong tính tình đã đem vào khuôn khổ thể thơ bảy chữ tám câu nhiều nét mới đã phá vỡ mọi qui định: 


Việc bác không xong tôi chết ngay!


Chết ngay? Như thế vội vàng thay!

( Bỡn người làm mối) 


Hỏi lão đâu ta?- Lão ở Liêm


Trông ra bóng dáng đã hom hem


( Già chơi trống bỏi) 


Người đói ta đây cũng chẳng no,


Cha thằng nào có tiếc không cho


( Thề với ăn xin) 


Rất nhiều bài thơ của Tú Xương có sự kết hợp hài hòa hai yếu tố hiện thực và trữ tình (Vịnh khoa thi hương năm Ðinh Dậu, Thương vợ, Thề với ăn xin . . .) 


Nói về sự kết hợp giữa hai yếu tố hiện thực và trữ tình trong một bài thơ, Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơ Tú Xương không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là vì thơ Tú Xương đã đi bằng hai chân hiện thực và lãng mạn, là vì thi pháp của Tú Xương phối hợp cả hiện thực và trữ tình  





2.      Ngôn ngữ và chất liệu dân gian:

 






2.1.           Ngôn ngữ:


Tú Xương là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh. Ngôn ngữ giản dị, chính xác, uyển chuyển, gợi hình và có tính chất dân gian ( Ði hát mất ô) được xem là bài duyên dáng, hóm hĩnh, độc đáo của Tú Xương vì ông đã thể hiện được cái thần của bài thơ. 


Sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tươi mát, tự nhiên mà vẫn thanh nhã, óng chuốt. Mấy câu sau đây như lời nói ở cửa miệng, không thêm bớt mà rất chân thành:


Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà,


Trước nhà có miếu, có cây đa


Cửa hè sân ngõ chừng ba thước,


Nửa tá tre pheo đủ một tòa . . .


( Ông ấm Ðiềm)


 Hoặc đây là cách nói ngang tàng nhưng rất tự  nhiên:


Gái tơ đi lấy làm hai họ

Năm mới vừa sang được một ngày


( Viếng cô Ký) 


Hai họ là vợ hai, đối với Một ngày tức mùng một tết. Vậy câu thơ chỉ giữ cái vỏ của phép đối mà vượt qua những ràng buộc khác khiến cho lời thơ của Tú Xương không những êm tai, sướng miệng mà còn rất độc đáo, có giá trị châm biếm cao.


 2.2.Chất liệu dân gian:


 Nhiều thành ngữ dân gian, ca dao đã đi vào thơ Tú Xương bằng sự sáng tạo riêng.


Các thành ngữ như Học đã sôi cơm, thi không ăn ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt khinh đời, năm nắng mưới mưa, thân cò lặn lội . . . đã được Tú Xương vận dụng khá độc đáo trong thơ.


Vuốt râu nịnh vợ con bu nó


Quắc mắt khinh đời cái bộ anh. 


Tú Xương rất am hiểu ca dao, nhiều câu ca dao còn thể hiện cái tình tứ, duyên dáng, hóm hỉnh của nhà thơ. 


Ai ơi còn nhớ ai không?


Trời mưa một mảnh áo bông che đầu


Nào ai có tiếc ai đâu


Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô?


Người đi tam đảo, ngũ hồ.


Kẻ về khóc trúc, than ngô một mình.


Non non, nước nước, tình tình


Vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ

Áo bông che đầu) 


IV. KẾT LUẬN: 


Về nội dung, thơ trào phúng và trữ tình của Tú Xương có giá trị hiện thực cao. Thơ Tú Xương là tiếng nói, là nỗi lòng của tầng lớp nho sĩ đang đứng giữa thời cuộc không đành tâm theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc. 


Về nghệ thuật, cả hai mặt trào phúng và trữ tình, Tú Xương xứng đáng là nhà thơ lớn của dân tộc, xứng đáng được Yên Ðỗ ( Nguyễn Khuyến) nhà thơ cùng thời xếp vào loại thi hào bất tử :


Kìa ai chín suối Xương không nát

Có nhẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.