Tác giả Huy Cận

Tác giả Huy Cận

Đánh giá: 7/10

Tác giả Huy Cận

Thiên nhiên tạo vật không còn đối lập với con người mà cùng con người hợp thành bức hoành tráng chói chang, rạng rỡ (Ðoàn thuyền đánh cá).


   * Thời kỳ này đánh dấu một bước chuyển biến mới của hồn thơ Huy Cận. Mỗi tập thơ là một nỗ lực lớn, tự vượt lên để khẳng định sự góp mặt vào cuộc đời mới. Với ý nghĩa đó, thơ Huy Cận còn củng cố nhận thức về cuộc đổi đời lịch sử và bồi đắp những tình cảm trong sáng, lành mạnh.  


   b. Thơ Huy Cận trong kháng chiến chống Mỹ:


   Trong kháng chiến chống Mỹ, Huy Cận đã góp tiếng thơ mình vào việc phản ánh những sự kiện, những vấn đề trọng đại của chiến tranh. Bằng nhiều chuyến đi thực tế vào tuyến lửa, nhà thơ kịp thời chuyển biến cách nhìn, cách nghĩ cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới.  Liên tiếp ra đời nhiều tập thơ có giá trị: Những năm sáu mươi (1968); Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973); Những người mẹ, những người vợ (1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975).


   – Trong khuynh hướng chung của thơ chống Mỹ, thơ Huy Cận tăng cường tính thời sự và tập trung vào việc khẳng định, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng miền Nam. Từ thế đứng hùng vĩ và tầm vóc lớn lao của dân tộc trên tuyến đầu chống Mỹ, Huy Cận càng có điều kiện để suy ngẫm về quá khứ và hướng về tương lai; từ truyền thống dân tộc đến quan hệ với thế giới, với thời đại. Giữa ngất trời đạn bom, cái nhìn của nhà thơ vẫn hướng về öphía khái quát để phát hiện ra những tầng sâu văn hóa truyền thống của đời sống con người Việt Nam:


                                       Sống vững chải bốn ngàn năm sừng sững


                                       Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa


                                       Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng


                                       Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa


                                                               (Ði trên mảnh đất này)


   – Tính chính luận, suy tưởng thể hiện rõ trong nhiều bài thơ. Xuất phát từ những sự kiện chính trị-xã hội hay những chi tiết cụ thể của đời sống, nhà thơ mở rộng liên tưởng để khám phá bề sâu triết lý của vấn đề.


   Trước ngã ba Ðồng Lộc – một trọng điểm trên tuyến đường vào Nam, nơi ghi dấu sự hy sinh dũng liệt của 10 cô gái phá bom – Huy Cận nghĩ đến ý nghĩa quyết định của những ngã ba trong đời mỗi người, mỗi dân tộc:


                                       Qua trái tim ngã ba Ðồng Lộc


                                       Máu qua tim máu lọc


                                       Xe vượt ngã ba xe xốc tới miền Nam


                                                            …Những ngã ba Việt Nam


                                       Trên đường dài kẻ địch còn găm


                                       Nhiều bom nổ chậm


                                       …Ðường sẽ thông xe đi về Cách mạng


                                                               (Ngã ba Ðồng Lộc)


   Bằng những hình ảnh giản dị, cụ thể, Huy Cận tập trung ngợi ca sức quật khởi, sức sống bất diệt và phong thái ung dung của con người Việt Nam. Nhà thơ đi đến một khái quát có ý nghĩa nhân văn sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ: đây là cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân nghĩa trước bạo tàn phi nghĩa, của sự sống trước sự hủy diệt. Nhận thức này thấm sâu trong cảm xúc và hình tượng thơ, tạo nên tâm thế bình tỉnh, tự tin của cả một dân tộc anh hùng trước những thử thách ác liệt. Trong Giờ trưa, cuộc sống vẫn êm đềm diễn ra với tiếng chim hót, nhện giăng tơ, gà cục tác,… bất kể sự lồng lộn của con ma Mỹ


                                       Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp tục


                                       Con gà mái lại đâu đây cục tác


                                       Báo với đời thêm một trứng tròn to


                                       Anh bộ đội ngoái đồng ngồi trên mâm pháo bóng tròn vo


   Chân lý góp thêm một cách nghĩ, thật giản dị, nhưng đầy triết lý về cuộc kháng chiến trường kỳ


                                       Ðủ tháng năm ta sẽ đánh giặc xong


                                       Trái chín cây  đâu phải chín nóng lòng


   – Quê hương đất nước, nông thôn Việt Nam luôn là đề tài quen thuộc, không thể thiếu trong thơ Huy Cận. Thời chống Mỹ, đó là những làng quê yên ả với nhịp sống tưởng như bình lặng nhưng luôn có nhiều xao động tinh tế. Vẻ đẹp truyền thống đang có nhiều đổi thay cho phù hợp với thời đại mới


                                       Gà gáy trong mưa vẫn tiếng vang


                                       Giọng kim, giọng thổ rộn vang đồng


                                       Ðược mùa giống mới, gà no bữa


                                       Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông


                                                   (Gà gáy trên cánh đồng Ba Vì được mùa)


***Hai bàn tay em (tập thơ cho thiếu nhi):


   Huy Cận rất yêu mến và quan tâm đến trẻ con. Nhà thơ dành hẳn một tập thơ cho các em. “Hai bàn tay em” khai thác đề tài từ những sự vật, khung cảnh gần gũi với cuộc sống của trẻ con (con cóc, con ve, con dế, cái chong chóng, buổi trưa hè,…); những khía cạnh tình cảm gia đình thân thuộc (cha mẹ-con cái, anh chị-em, ông bà-cháu); những câu chuyện lịch sử, những tấm gương thiếu niên anh hùng.


   Tập thơ như những bài học nhằm giáo dục các em lòng yêu quê hương đất nước, yêu con người, yêu lao động, tinh thần đoàn kết,…Không là những lời giáo huấn khô khan, tiếng thơ Huy Cận rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ:


               –            Buổi trưa lim dim


                           Nghìn con mắt lá


                           Bóng cũng nằm im


                           Trong vườn êm ả


               –            Bé gọi con dế


                           Quen nấp đầu hồi


                           Dế kêu the thé


                           Giật mình bưởi rơi


*Từ 1975 đến nay, Huy Cận vẫn sáng tác đều đặn. Gác lại chuyện chiến tranh, tâm hồn nhà thơ trở về với mạch cảm xúc quen thuộc của cuộc đời hàng ngày quanh mình; lại say mê thiên nhiên, vũ trụ và nghiền ngẫm, suy tư về sự sống con người. Những tập thơ tiêu biểu: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (1997).


   Thơ Huy Cận tiếp tục phát triển theo hướng suy tưởng, hướng nội hơn; có khuynh hướng chiêm nghiệm về ý nghĩa nhân sinh cao cả từ những biểu hiện bình dị của đời thường:


                           Yêu mãi, yêu rồi, đâu hết yêu


                           Cuộc đời như miếng đất phì nhiêu


                           Trồng bao nhiêu vụ còn tươi tốt


                           Hạt gặt xong rồi, hạt lại gieo


                                                   (Hạt lại gieo)


III. PHONG CÁCH THƠ HUY CẬN


   1. Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Ðây là nhà thơ có “cái nghiêng tai kỳ diệu”(Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ những mùi vị dân dã của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để rồi nói lên linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ rung động lòng người.


   + Trước 1945, tuy vật vã với nỗi sầu đau nhưng thiên nhiên trong thơ Huy Cận vẫn thấm thía tình người, tình đời (Ngậm ngùi, Tràng giang, Buồn đêm mưa):


                           –            Ðêm mưa làm nhớ không gian


                                       Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la


                                       Tai nương nước giọt mái nhà


                                       Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn


                           –            Nắng chia nửa bãi, chiều rồi


                                       Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu


                                       Sợi buồn con nhện giăng mau


                                       Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây


   Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa tình; cảnh sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều:


                                       Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá


                                       Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ


                                       Tiếng lao xao như ai ngả nón chào


                                       Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao


                                       Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm


                                                               (Chiều thu quê hương)


   + Năng lực ấy không chỉ có được bằng sự tinh nhạy của các giác quan (rèn dũa trong những năm tháng tuổi thơ, sống ở quê hương) mà còn xuất phát từ chiều sâu tâm hồn nhà thơ – một tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận đủ đầy âm vang mọi phía đời sống.


   + Có thể nói: thiên nhiên, quê hương đất nước là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ Huy Cận. Nếu ở Xuân Diệu, thiên nhiên thường sực nức hương vị và ngôn ngữ ái tình thì ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ cũng lặng lẽ, bình thản như tâm hồn tác giả. Không thể hình dung được thơ Huy Cận sẽ ra sao nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài,… Nhưng thơ ấy không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước sau tác giả vẫn luôn nặng lòng đời, luôn có ý thức phát hiện rồi khẳng định sự hài hòa giữa con người với tự nhiên; để mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm nhận thức về sự tồn tại của con người. “Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn mình” (Xuân Diệu).


   2. Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ-cuộc đời, sự sống-cái chết, nỗi buồn-niềm vui, hiện thực-lãng mạn.


   + Vũ trụ và cuộc đời luôn song hành tồn tại, thành hai cực hấp dẫn hồn thơ Huy Cận. Thơ ông ngày càng gắn bó với đời, nhưng cảm hứng về cuộc đời không tách rời cảm hứng về vũ trụ. Vươn lên tìm hiểu những bí ẩn của không gian vô cùng cũng đồng thời nhìn về trái đất để hiều hơn chính mình. Khát vọng ấy mang bản chất triết lý, nhân văn cao cả. Bởi đích đến cuối cùng của nó không phải cõi siêu hình nào mà chính là mặt đất, cõi sống của con người.


   + Huy Cận viết khá nhiều về cái chết, về sự tương phản nghiệt ngã giữa hữu hạn đời người với cái vô hạn của tạo hóa. Sự sống là bất tử, vũ trụ là vô cùng nhưng con người không thể tránh được cái chết. Nghĩ đến lúc từ giã cõi đời, nhà thơ không khỏi xót xa nuối tiếc. Nhưng đó không là biểu hiện của thái độ ham sống sợ chết tầm thường mà là của khát vọng được cống hiến hết mình, được tái sinh:


                                       Rồi một ngày kia giã cõi đời


                                       Xin cho gieo hạt hết trong tay


                                       Chứ tay còn nắm chưa vơi hạt


                                       Mà phải ra về cực lắm thay


                                                               (Hạt lại gieo)


                                       Ðời thân yêu, một ngày mai ta chết


                                       Cho ta đi khi hè chói chang trưa


                                       Ðể ta hiểu giã từ chưa phải hết


                                       Nằm đất quen như hạt chín sang mùa


                                                               (Say mùa hè)


   + Nỗi buồn và niềm vui ở Huy Cận đều được đẩy đến cực đoan: lúc buồn-buồn đến ảo não, thê thiết; khi vui-vui tràn trề, dào dạt. Hành trình tâm tưởng của Huy Cận đi từ nỗi buồn sâu đến niềm vui lớn. Cảm nhận, thể hiện rõ hai đối cực này chứng tỏ nhà thơ rất thiết tha với cuộc đời và ý thức đầy đủ về thân phận con người. Khi nỗi buồn được ý thức, hóa thành nỗi đau đời; khi niềm vui được ý thức, sẽ thành hạnh phúc, tin yêu.


   + Cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận, trước 1945, có sự phân cực khá rõ giữa hiện thực và lãng mạn. Từ sau 1945, hai đối cực ấy dần dần đạt đến độ hòa hợp cần thiết, trên cơ sở sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực trong cuộc sống mới.     


   3. Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đã rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ – những khi đạt đến độ thuần thục – rất dễ đi vào lòng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh – trong tay Huy Cận – vừa mộc mạc chân tình vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rõ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ. Hình ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian có được – trước hết – nhờ phong vị Ðường thi. 


IV. KẾT LUẬN CHUNG:


   Con đường thơ của Huy Cận khá tiêu biểu cho lớp nhà thơ thuộc thế hệ thứ nhất, văn học Việt Nam hiện đại. Từ một thành viên xuất sắc của phong trào thơ Mới, Huy Cận đến với Cách mạng, tìm thấy mục đích, lý tưởng chân chính cho tiếng nói nghệ thuật của mình và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.


   Với vốn văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật rõ ràng, Huy Cận đã góp vào thi đàn một tiếng thơ có hương sắc riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc.