
Soạn bài Chữ người tử tù
Soạn bài Chữ người tử tù
… Người ta còn gán cho Nguyễn Tuân một nghịch thuyết khác: Chủ nghĩa ẩm thực. Chính Nguyễn Tuân cũng có lúc tự thấy mình có một cái nhìn sự vật riêng gọi là “Nhỡn quan ẩm thực”.
Thực ra nói nhiều về cái ăn, về miếng ăn, đâu có riêng gì Nguyễn Tuân? Ngày xưa có ai đó đã biên soạn cuốn Tản Đà thực phẩm. Ông bạn vong niên này của Nguyễn Tuân vẫn nổi tiếng là người ăn uống sành sỏi và cầu kỳ lắm. Thế hệ sau thì có Thạch Lam, tác giả Hà Nội băm sáu phố phường. Nguyên Hồng cũng hay tả tỉ mỉ những bữa ăn, những món ăn. Nam Cao thì hay triết lý về miếng ăn đối với người nghèo. Vũ Bằng thường viết lối phóng sự tả chân sau này bỗng chuyển sang giọng văn trữ tình khi nhớ lại những miếng ngon Hà Nội (Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội)…
Chung quanh miếng ăn, vậy mà cũng đã phân hóa lắm phong cách nghệ thuật khác nhau. Ví như Nguyên Hồng cũng là một cây bút viết rất hay về miếng ăn. Nhưng nhìn chung ông thành công hơn cả vẫn là khi tiếp cận miếng ăn từ khẩu vị của những người nghèo khổ. Miếng ăn trong văn Thạch Lam, Vũ Bằng thì lại được tiếp cận từ khẩu vị của những lớp thị dân Hà Nội. Nam Cao cũng hay viết về vấn đề miếng ăn và viết với tất cả tâm huyết của mình (Một bữa no, Trẻ con không biết ăn thịt chó, Quên điều độ, Sống mòn…). Nhưng ông không bàn luận về miếng ăn như là một thứ thực phẩm. Ông đau đớn đề cập đến cái phương diện: miếng ăn là miếng nhục. Nhân vật của Nam Cao thường bị cái đói, cái nghèo đẩy tới chỗ phải vứt bỏ nhân cách, phải chịu bị lăng nhục vì miếng ăn.
Nguyễn Tuân cũng viết rất hay về miếng ăn, nhưng lại có một cách tiếp cận riêng không lẫn với ai. Đọc văn Nguyễn Tuân thấy con người trước miếng ăn chẳng những không hèn đi mà còn trở nên sang trọng hơn. Chẳng những không bị phàm tục hóa mà còn trở nên có tư cách hơn, có văn hóa, có thẩm mĩ hơn, có tâm hồn hơn. ấy là vì Nguyễn Tuân không nhấm nháp miếng ăn bằng vị giác, nghĩa là tiếp cận nó chỉ như một của ngon. Ông tìm hiểu và đánh giá chén trà buổi sớm, hạt cốm mùa thu, bát phở mùa đông, miếng giò ngày Tết v.v.. ở bình diện văn hóa- lịch sử và thưởng thức những mĩ vị ấy một cách đầy tự hào như những công trình nghệ thuật tuyệt vời mà ông gọi là “đỉnh cao của một dạng văn hóa dân tộc”… (Giò lụa)
Nguyễn Đăng Mạnh
(Cảnh sắc và hương vị đất nước qua văn Nguyễn Tuân.
Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, Sđd, tr.154-159)
2. Tập Vang bóng một thời
… “Vang bóng một thời viết về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng, song chưa phải là xa lắm: thời Tây vừa mới đặt xong ách đô hộ lên đất nước, phong trào Cần Vương đã thất bại, những nhà nho lủi thủi dự “khoa thi cuối cùng” trong không khí loạn lạc đầy lo âu… Viết về cái thời xã hội phong kiến suy tàn ấy, nhà văn hầu như chỉ đi vào những nét sinh hoạt tài hoa, cầu kỳ của lớp nho sĩ cuối mùa. Nhân vật trong Vang bóng một thời thuộc loại tài hoa, tài tử và mỗi truyện tập trung nói về một cái “tài” một kiểu ăn chơi “phong lưu” của họ. Đó là ông Huấn Cao có “cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” (Chữ người tử tù), là cụ Sáu, ông Đốc học, sư cụ chùa Đồi Mai… những người thưởng thức một ấm trà mà thành kính, thiêng liêng, pha trà bằng nước giếng gánh tận trên đồi cao, hoặc nước đọng trên lá sen mặt hồ một buổi sớm…
Nguyễn Hoành Khung
(Từ điển văn học, tập II
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1964)
3. Về tác phẩm
“Những nhà văn có phong cách đều tạo ra cho mình một thế giới nhân vật riêng. Thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân, nói chung gồm hai loại người đối lập nhau: Loại người tài hoa nghệ sĩ, có nhân cách, có “thiên lương”, tự đặt mình lên trên hạng người thứ hai gồm những kẻ tiểu nhân phàm tục, bằng thái độ ngạo đời, khinh bạc. Loại người thứ nhất, theo Nguyễn Tuân, thường là những linh hồn đẹp còn sót lại của một thời gian đã qua, nay chỉ còn “vang bóng”. Loại người ấy cố nhiên là hiếm hoi. Còn kẻ tiểu nhân phàm tục thì đầy rẫy trong thiên hạ.
Chữ người tử tù dựng lên một thế giới tối tăm, tù ngục, trong đó kẻ tiểu nhân, bọn độc ác bất lương làm chủ. Trên cái tăm tối ấy, hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn: Huấn Cao, người quản ngục và viên thơ lại – những con người có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí. Họ tình cờ gặp nhau trong một tình thế oái oăm, từ chỗ ngờ vực nhau, đối địch nhau, dần dần đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỷ.
Ba đốm sáng cô đơn ấy cuối cùng tụ lại, tạo thành ngọn lửa ngùn ngụt rực sáng giữa chốn ngục tù- “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cái đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn đã tập hợp họ lại giữa cái nơi xưa nay chỉ có gian ác, thô bỉ và hôi hám: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái tài, cái đẹp đối với cái nhem nhuốc, tục tằn, của thiên lương đối với tội ác…”
Nguyễn Đăng Mạnh
(Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Sđd, tr.168-169)