Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình - Truyện Kiều

Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình - Truyện Kiều

Đánh giá: 7/10

Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình - Truyện Kiều

Đối ứng: cảnh đẹp, tao nhã, trong sáng như mỉa mai, chế giễu, dằn vặt nhân vật. Dù là tương đồng hay tương phảm thì mục đích cuối cùng cũng là để nhấn mạnh, lột tả đầy đủ, chính xác và xúc động cái thế giới nội tâm – vốn là một thế giới rất khó khám phá ở nhân vật. Chiều sâu của ý thơ vẫn là cái nhìn đầy chất nhân văn của nhà thơ.


Tìm cách giải thoát cho mình khỏi nỗi buồn đau, Kiều tìm đến thiên nhiên nhưng cảnh nào cũng buồn vì lòng nàng chẳng bao giờ nguôi; tìm đến các thú chơi tao nhã nhưng chơi gì cũng nhạt vì lòng nàng chẳng có bạn tri âm. Kiều hốt hoảng nhìn lại hiện thực quanh mình lần nữa, có đủ cả Phong hoa tuyết nguyệt nhưng tại sao nàng vẫn thấy vô cảm, lạc lõng? Kiều lệch hẳn ra khỏi cái chốn bùn nhơ ấy. Thân xác tuy trở thành hàng hóa, đồ chơi, tấm thân mà xã hội và lầu xanh có thể lấy đi được nhưng tâm trạng của Kiều chỉ còn trơ lại là sự vô cảm, ghê sợ – một tâm hồn thanh cao mà xã hội không bao giờ cướp được. “Vui gượng” nói lên tất cả sự lệch pha, sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sự luôn luôn dằn vặt và mâu thuẫn ấy lại chính là nét đẹp của nàng. Tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. “Ai tri âm đó mặn mà với ai”. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn. Ấy vậy mà tại sao vẫn còn chỗ cho câu chuyện về tri âm, tri kỉ? Dễ hiểu vì sao sau này khi Từ Hải đến lầu xanh với con mắt khác người và nhìn ra ở Kiều một tấm lòng tri kỉ, Kiều đã “cảm khái” đến như thế nào. Thì ra, sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình, hơn cả là mong chờ một hạnh phúc thực sự. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc. Sự lẻ loi của Kiều cũng chính là sự lẻ loi của Nguyễn Du. Sự khát khao tri âm của Kiều cũng na ná như tấm lòng của Nguyễn Du trước mộ Tiểu Thanh với câu hỏi cháy lòng:


“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”


Cũng vì câu chuyện tri âm đó mà Nguyễn Du sau này đã để Kim Trọng nói một câu rất chính xác về Kiều trong ngày hội ngộ:


“Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay”
Hoặc là lời nhận xét:
“Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường”


Trước đây có nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn tỏ ra khắt khe trong việc xét đoán Kiều bằng nhiều cách gọi: con đĩ, tà dâm… Nguyễn Du giữ lại một cái cốt lõi trong câu chuyện “nôm na mách qué” của mình, đó là một ý thức, một số phận, một tấm lòng. Nguyễn Du không né tránh việc nói về thân phận nhân vật chính là kĩ nữ giữa chống bùn nhơ và cái cách ông miêu tả là phân tích tâm lí một cách tàn nhẫn (từ dùng của Phan Ngọc): nhân vật tự soi mình, tự đau khổ và giày vò chính mình. Câu nói của Kim Trọng thể hiện tấm lòng rộng mở của Kim Trọng nhưng cũng là của Nguyễn Du – nhà thơ có tấm lòng nhân đạo vượt xa cách nhìn đầy kì thị của xã hội phong kiến để nhìn đúng một người phụ nữ rơi vào thân phận bị cả xã hội coi thường.


Bản thân đoạn trích không nói lên quan niệm về chữ “trinh” của Thúy Kiều, ngược lại, toàn nói về lầu xanh và những nhơ nhớp mà Kiều phải chịu đựng, phải trải qua, biết là nhục nhã, ê chề nhưng không thể chống lại. Sẽ tốt hơn cho Kiều nếu như nàng chấp nhận số phận (vì chính Kiều được Tú Bà rao giá rất cao – chứng tỏ là một gái lầu xanh đắt giá: Lầu xanh mới rủ trướng đào, càng treo giá ngọc càng cao phẩm người). Đằng này Kiều luôn sống trong sự đau đớn, xót xa, trong ý thức về phẩm chất, trong sự “giật mình” và “thương mình” khôn nguôi. Tuy nhiên cái mà người đọc nhận ra sau cùng ấy chính là tấm lòng trinh bạch của nàng hiện sau câu chữ, như thể một tấm gương mà chỉ cần cơn mưa gột rửa bụi mờ, sẽ hiện lên trong sáng vô ngần. Không nói về chữ “trinh”, về phẩm giá của Kiều mà vẫn làm hiện lên điều đó với tất cả sự trân trọng, đó không chỉ là tấm lòng mà còn là tài nghệ của Nguyễn Du.


Đặc sắc về nghệ thuật trong toàn đoạn trích “Nỗi thương mình” chính là nghệ thuật tả nội tâm nhân vật bao gồm: bút pháp ước lệ, tả cảnh ngụ tình, các hình ảnh đối lập, ngôn ngữ nửa trực tiếp, biện pháp đối xứng với mật độ dày đặc trong 20 câu thơ. Thành công của Nguyễn Du chính là ở chỗ đã chọn được một góc nhìn, một cách xử lí nghệ thuật vừa tinh tế, mới lạ lại vừa thể hiện cho ra được cái màu sắc của thi pháp trung đại. Nổi bật hơn cả là các phép đối tinh diệu: Tiểu đối trong cấu trúc bốn chữ được dùng khá phổ biến: bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim, dày gió/dạn sương… Tiểu đối ở phạm vi câu thơ: Cuộc say…, sớm đưa…tối tìm…, khi tỉnh rượu, lúc tàn canh… Đối giữa 2 câu thơ lục bát: Khi sao…giờ sao…, mặc người… Đối 2 khổ thơ 4 câu với nhau như: đòi phen… đòi phen.


Nguyễn Du đã mạnh dạn vượt ra khuôn khổ “văn dĩ tải đạo” để đề cao cái tôi, đề cao ý thức cá nhân con người. Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất cũng bởi Nguyễn Du không ngần ngại đề cập đến nỗi đau, tâm trạng ê chề, khát khao hạnh phúc thực sự, ý thức về nhân cách của người phụ nữ chốn lầu xanh.


Ở một góc độ nào đó, đoạn trích là tiếng kêu cứu của những con người bị dìm xuống đáy xã hội. Nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là chú ý đến thân phận cá nhân. Lần đầu tiên trong văn học trung đại, người ta biết “xót thân”. Nguyễn Du là người đầu tiên tìm đến và chia sẻ tình cảm này, tạo nên một trào lưu nhân văn chủ nghĩa: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm… Cuộc phục hưng này của văn học dân tộc có điểm giống cuộc phục hưng của Văn học phương Tây thế kỉ 19: khám phá ra con người cá nhân, con người trần thế.


“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, biết đau khổ trước thân phận và thực tại, biết ê chề, bẽ bàng vì sự nhơ nhớp, biết thương lấy chính mình và biết khát khao tình yêu, hạnh phúc, khát khao giữ gìn nhân phẩm – đó là bi kịch, là nỗi đau của Kiều nhưng đồng thời cũng là vẻ đẹp đáng quí của nhân vật. Nếu không có những nỗi đau ấy, nhưng bi kịch tinh thần ấy, Kiều đã không phải là một nàng Kiều “sắc sảo mặn mà”, một nàng Kiều là hiện thân cho sự trinh tiết, cho cái đẹp trong sự ngưỡng vọng, trân trọng của Nguyễn Du.