Snack's 1967
Phẩm bình nhân vật lịch sử

Phẩm bình nhân vật lịch sử

Đánh giá: 7/10

Phẩm bình nhân vật lịch sử

Có tài liệu cho rằng, trước đó trong một cuộc hành quân trấn áp của Tô Định, chồng bà Trưng Trắc đã tử trận. Tuy nhiên, theo truyền thuyết địa phương, Thi Sách tham gia tích cực vào cuộc khởi nghĩa cùng vợ và em. Nghĩa quân xuất phát từ Hát Môn (Hà Tây), tiến nhanh về phía quận trị :


Ngàn tây nổi áng phong trần


ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên


Quân thù bỏ chạy. Nghĩa quân chiếm Cổ Loa và đánh về phía Luy Lâu. Tô Định hốt hoảng cắt râu, cạo tóc, trốn khỏi thành, chạy về Trung Quốc. Quận trị Giao Chỉ được giải phóng. Cùng lúc đó, nhân dân các quận Cửu Chân, Hợp Phố đều nổi dậy. Chính quyền đô hộ trên toàn đất nước ta bị lật đổ. Nghĩa quân suy tôn Trưng Trắc là Trưng Vương. Kinh đô được đặt ở Mê Linh. Trưng Vương thành lập chính quyền, phong tước cho em và những người có công. Cuối năm 42, mấy vạn quân Hán do Mã Viện chỉ huy tràn vào nước ta. Hai Bà tấn công ngay vào đạo quân chủ lực của Mã Viện ở vùng hồ Lãng Bạc (Tiên Sơn – Bắc Ninh). Chẳng may thất bại, Hai Bà phải rút quân về phía Mê Linh. Nhiều nữ tướng hi sinh trong kháng chiến. Giặc nhân đó, dồn hết lực lượng đánh vào Mê Linh. Quân Hai Bà rút về Cấm Khê (Ba Vì – Hà Tây). Trong một trận đánh, Hai Bà chống không nổi đã tự vẫn.


Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo


Chị em thất thế đành liều với sông.


(Theo Đinh Xuân Lâm – Trương Hữu Quýnh (Chủ biên),


Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Sđd)


2. Ngô Quyền là người chỉ huy trận Bạch Đằng nổi tiếng. Ông là người Đường Lâm (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây) cùng quê với Phùng Hưng, là con của Ngô Mân, châu mục địa phương thời Khúc. Thời trẻ, theo sử cũ “vẻ người khôi ngô, mắt sáng như chớp, đi thong thả như cọp, có trí dũng, sức có thể cầm vạc giơ lên”. Dương Đình Nghệ chọn làm nha tướng, yêu mến và gả con gái cho, sau đó ông được cai quản châu ái (Thanh Hoá).


Năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại, cả nước căm giận tên phản bội. Ông quyết định đem quân từ châu ái ra trừng trị tên phản chủ cướp quyền. Kiều Công Tiễn hoảng sợ, cho người sang Nam Hán cầu cứu. Vua Nam Hán nhân đó, một lần nữa tổ chức cuộc xâm lược, giao cho con là Hoằng Tháo chỉ huy một hạm thuyền lớn đi trước, còn mình thì đem quân bộ đến biên giới chờ phối hợp. Được tin đó, Ngô Quyền nhanh chóng tiêu diệt bọn Kiều Công Tiễn, rồi hội quân chuẩn bị cuộc kháng chiến. Nhiều hào kiệt các nơi đưa quân về cùng Ngô Quyền sẵn sàng chiến đấu. Tại cuộc họp các tướng được triệu tập, Ngô Quyền đã nói : “Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, quân địch mỏi mệt, tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua không thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vót nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hay hơn thế cả !”. Các tướng đồng thanh ủng hộ. Lệnh ban ra, quân và dân địa phương hăng hái tham gia xây dựng trận địa. Cuối năm 938, đoàn thuyền chiến nặng nề của giặc tiến vào cửa sông Rừng. Ông cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, rồi vờ thua, bỏ chạy. Giặc đuổi theo, thuyền vượt qua trận địa cọc. Chờ khi nước triều xuống, lệnh phản công ban ra như kế hoạch đã định. Hàng ngàn thuyền nhỏ của ta lao vào hạm thuyền của giặc, quân sĩ chiến đấu quyết liệt. Giặc chống không nổi vội quay thuyền chạy ra biển, bất ngờ lao vào những mũi cọc đang nhô dần lên nên bị đổ vỡ tan tành. Quân ta lại xông lên tiếp chiến. Hoằng Tháo tử trận. Được tin đó, vua Nam Hán than khóc và hạ lệnh rút quân về. Trận Bạch Đằng lịch sử “vang dội đến ngàn thu” đã khẳng định nền độc lập của đất nước ta. Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng vương, xây dựng lại chính quyền, đóng đô ở Cổ Loa. Đất nước yên bình. Năm 944, Ngô Quyền mất. Khắp nơi, nhân dân lập đền thờ ông.


(Theo Đinh Xuân Lâm – Trương Hữu Quýnh (Chủ biên),


Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Sđd)


3. Đinh Tiên Hoàng (924 – 979) là người có công thống nhất lại đất nước ở thế kỉ X, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt. Ông là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), con của Thứ sử châu Hoan Đinh Công Trứ. Cha mất sớm, ông sống với mẹ ở Đàm Gia (cùng châu). Từ thuở nhỏ ông khoẻ mạnh, dũng cảm, nhanh nhẹn, thường cùng lũ trẻ trong làng chơi trò đánh nhau, lấy bông lau làm cờ. Ông được các bạn suy tôn làm chủ tướng, đi đâu đều được chúng khoanh tay làm kiệu để khiêng. Lũ trẻ các làng bên cũng đều suy tôn ông. Bà mẹ thấy thế rất vui mừng, có khi mổ cả lợn để khao thưởng. Người già trong làng cũng rất quý trọng ông, nên khi ông lớn lên, tôn ông làm trưởng sách. Chú ông ở làng bên, nhân tình hình trong nước không yên, đã họp quân, đánh sang làng Đàm Xá. Đinh Bộ Lĩnh chống không nổi. Theo truyền thuyết, khi chạy qua cầu Đàm Gia, chẳng may bị rơi xuống vũng bùn, người chú lấy giáo định đâm chết nhưng thấy có hai con rồng vàng che đỡ, nên sợ quá, lùi về. Sau đó, ông quay lại, tập hợp trai tráng, bạn bè cũ trong làng sang đánh làng của chú. Chú thua, phải quy phục. Cả đất Hoa Lư đều theo ông.


Năm 951, Nam Tấn vương và Thiên Sách vương (hai anh em, con của Ngô Quyền) nghe tin, đem quân tiến đánh. Biết chưa thể chống lại được quân của hai vương, Đinh Bộ Lĩnh đành phải cho con sang làm con tin để xin hoà. Hai vương không chịu rút quân, tiếp tục đánh vào chỗ đóng quân của ông. Cuộc chiến diễn ra hàng tháng, không có kết quả. Hai vị vương liền sai người treo Đinh Liễn (con trai của ông, đang làm con tin) lên cây cao và đe doạ : nếu ông không hàng sẽ bắn chết. Ông tức giận, quát to : “Đại trượng phu chỉ ở việc lập công danh, chứ sao lại chịu bắt chước đàn bà mà thương tiếc con”. Ông sai mười tay nỏ nhằm vào Liễn để bắn. Hai vị vương thấy thế, kinh ngạc, cho hạ Đinh Liễn xuống rồi rút quân về.


Nhà Ngô ngày càng suy yếu. Các hào trưởng nổi lên cắt đất, đánh lẫn nhau, sử gọi là loạn 12 sứ quân. Cuộc sống của người dân thường ngày càng khó khăn, khổ cực. Ông bèn liên kết với sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình) tiến đánh các sứ quân khác. Hào kiệt các nơi theo về, nhân dân ủng hộ, quân của ông đánh đâu thắng đó. Ông được mọi người tôn xưng làm Vạn Thắng vương. Năm 967, nhà Ngô đổ. Một số sứ quân ngả theo ông. Mở rộng cuộc chiến ra các nơi, quân của ông dần dần đánh bại được các sứ quân, thống nhất đất nước.


Năm 968, đất nước trở lại yên bình. Ông lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng), xây dựng kinh đô ở Hoa Lư, thành lập triều đình, đặt tên nước là Đại Cồ Việt.


(Theo Đinh Xuân Lâm – Trương Hữu Quýnh (Chủ biên),


Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Sđd)