
Đọc hiểu Tống biệt hành
Đọc hiểu Tống biệt hành
Hai từ thà coi được lặp lại liên tiếp ở ba câu thơ là hai từ rất nhạy cảm, nó dễ gây ra những phản ứng với người đọc. Chủ thể của thái độ “thà coi” là ai ? Muốn khẳng định giọng điệu của ba câu thơ cuối ta cần xem xét hai cách hiểu thường được đưa ra bàn cãi mới đây. Cách hiểu thứ nhất cho rằng li khách quyết ra đi cho nên coi mẹ, chị, em của mình giống như chiếc lá, hạt bụi, hơi rượu để khỏi bị day dứt cõi lòng. Nhưng phần lớn ý kiến bác bỏ cách hiểu như trên và khẳng định đây là lời của li khách muốn nói với người thân xin hãy coi li khách như một cái gì hết sức nhỏ bé, vụt thoáng qua trong gia đình rồi biến mất để mà đừng có luyến tiếc đau khổ nữa. Nếu cho rằng li khách coi mẹ, chị, em của mình tựa như chiếc lá, hạt bụi, hơi rượu để tô đậm chí lớn và quyết tâm ra đi thì ở phần đầu bài thơ ý nghĩa này đã được tô đậm rồi. Hơn nữa, nếu hiểu ý thơ theo cách thứ nhất là vi phạm tính chất nhân bản, vi phạm thô thiển tình cảm nhân đạo của con người, hiểu như thế sẽ nghèo nàn sắc thái thẩm mĩ của bài thơ. Hình ảnh li khách sẽ trở thành phi nhân tính và không thật, không nhất quán về tâm trạng và tình cảm. Một người vô tâm với gia đình và người thân thì không thể là người sâu sắc, càng không thể là người có lí tưởng cao đẹp. Mặt khác ba hình ảnh thơ “chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu” đều mang tính chất chuyển động nên nó gần gũi tương đồng và gợi mối liên tưởng với người ra đi. Ta đã gặp hình ảnh thơ giống như vậy khi viết về người ra đi trong câu thơ của Nguyễn Bính :
Cha đừng tiếc, mẹ đừng thương
Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi.
(Hành quân ngang)
Cách hiểu thứ hai thấu tình đạt lí hơn. Đây là giọng điệu của li khách, giống như lời an ủi những người thân yêu của mình hòng làm vợi bớt phần nào nỗi thương nhớ đau khổ cho họ chăng ?
Sự độc đáo và thành công của Tống biệt hành là ở chỗ không chỉ khơi dậy không khí của thơ cổ mà cái chính là đã đem đến chất liệu mới cho văn học. Miêu tả thế ra đi của một tráng sĩ theo tinh thần thơ mới. Li khách là nhân vật của văn chương lãng mạn. Đó là con người phi thường nhưng không khác thường, chính những tình cảm đời thường (day dứt, dằn vặt, đau khổ) đã khiến cho li khách càng trở nên cao cả hơn. Con người đó không chỉ có chí nhớn mà còn có tình cảm thắm thiết sâu nặng, không chỉ có lí tưởng cao đẹp mà còn có nhân tính. Thâm Tâm đã tạo nên một hình tượng đẹp và chân thực về con người qua Tống biệt hành. Với hình tượng người tráng sĩ nhà thơ đã hoàn thiện tư tưởng “chí làm trai” của văn học phương Đông với những cảm xúc chân thực và hiện đại. Giữa bản nhạc mang nhiều âm điệu ảo não của thơ mới, Thâm Tâm đã tạo nên một âm điệu hùng tráng và cổ điển riêng, làm phong phú và sâu sắc hơn những phương diện giá trị của phong trào Thơ mới. Và Thâm Tâm đã chứng minh rằng, phát triển có kế thừa truyền thống là một nguyên tắc sáng tác luôn luôn đúng đắn.
III – liên hệ
1. Trong Tống biệt hành, “cánh bè” cắm chặt trên sông là cuộc sống gia đình quẩn quanh, tù túng. Cuộc sống này không phải không có chất thơ : cảnh sắc quê nhà cũng như chị gái, em thơ ở lại nhà được miêu tả bằng những hình ảnh tuyệt vời. Trong bài Lưu biệt, cuộc sống tù túng không thiếu những điều quyến rũ, níu giữ người ra đi : thơ và nhạc, “giọng đàn lưu luyến” và “tiếng cười”, “cố nhân”, “rượu xuân… đượm say mùi cũ”… Nhưng người ra đi vẫn quyết giã từ… Đó là ý nghĩa của câu “Một giã gia đình, một dửng dưng”. Sự “dửng dưng” không thuộc bản tính của người ra đi. Đây chỉ là nỗ lực tâm lí cuối cùng.
Phong cách bài thơ vừa gợi ra hơi hướng lãng mạn vừa tạo dáng cốt cách trượng phu ở nhân vật người ra đi. Nhưng người ra đi là ai ? Một đấng trượng phu có hơi hướng lãng mạn hay một người lãng mạn có dáng dấp trượng phu ? Tôi thiên về nhận định sau. Phải nhận rằng trong bài Tống biệt hành có những từ, những điệu bộ và khẩu khí bị quy định bởi tính chất cổ xưa của điệu hành mà tác giả lựa chọn có ý thức làm thể loại cho tác phẩm của mình. Thâm Tâm trước sau là con người của phong trào Thơ mới. Người ra đi là một nhân vật lãng mạn, phần còn lại là văn chương, là cách điệu, là điệu bộ và “trò diễn ngôn từ”. “Đầy hoàng hôn trong mắt trong” là nét lãng mạn tuyệt vời ở nhân vật này. Mà văn chương lãng mạn Việt Nam, cả một thời Thơ mới và Tự lực văn đoàn cũng không tạo được một nét nào tuyệt vời hơn cho nhân vật lãng mạn đương thời.
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?
Tiếng sóng trong lòng ai ? Có thể dễ dàng nhất trí tiếng sóng ở trong lòng người đưa tiễn. Nhưng “đầy hoàng hôn” trong mắt ai ? Lời trong bài thơ từ đầu chí cuối là lời của người đưa tiễn, dù người ấy thầm nói với mình hay thầm nói với bạn, thầm nghĩ về mình hay thầm tưởng về bạn… Vậy thì người tiễn chỉ có thể nhìn thấy “hoàng hôn” trong mắt người đi. Bởi lẽ người tiễn (và bất kì ai cũng vậy) không thể nhìn thấy mắt của chính mình (trừ phi buổi tiễn đưa, có mang theo một chiếc gương, chốc chốc lại đưa ra soi).
Khổ kết thúc bài thơ :
Người đi ? ừ nhỉ, người đi thực !
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
Về ba câu cuối có hai cách hiểu khác nhau : (người ra đi) thà coi (mẹ) như chiếc lá bay hay (bà) mẹ thà coi (người con ra đi) như chiếc lá bay và vân vân… ở câu 1 người tiễn đưa thầm nghĩ về người đi thì ba câu tiếp theo hiểu như là người tiễn “nhập cảm” vào người đi để ném ra ba chữ thà sẽ tự nhiên hơn hiểu như là người tiễn lần lượt “nhập cảm” vào “mẹ”, “chị” và “em” và lần lượt buông ra ba chữ “thà”. Với cách hiểu thứ nhất, có chút gì đó “nhẫn tâm”, “khinh bạc” ở người ra đi, điều này ở một “người đàn ông” xem ra có thể chấp nhận được. Với cách hiểu thứ hai, “nhẫn tâm” và “khinh bạc” được gán cho “mẹ già”, “chị gái”, “em thơ”, điều này rất khó chấp nhận về mặt đạo đức cũng như về mặt mĩ học.
Đọc Tống biệt hành của Thâm Tâm có những cách hiểu rất khác nhau nhưng mọi người đều nhất trí đây là một bài thơ hay. Như thế là thế nào ? “Một sự kiện mà nhiều người biết là bài thơ, một mặt, có lớp ý nghĩa đầu tiên có thể dịch ra được bằng văn xuôi, mặt khác nó sống trong tâm trí người đọc một cuộc sống thứ hai, chính cuộc sống này xác định nó như là một bài thơ” (Merleau Ponty).
(Hoàng Ngọc Hiến, Văn học… gần & xa, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003)
2. Bài thơ thống nhất một trạng thái cảm xúc từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng sự thống nhất lại sinh ra từ những tình thế đối lập gay gắt trong cảnh ngộ, trong tâm lý. Cái thái độ một giã gia đình, một dửng dưng cố che đậy, cố giấu nỗi xót thương mẹ già em dại, hai chị lỡ làng. Ba câu cuối cùng nói như buông xuôi, như nhẹ nhõm để nén một tiếng gào. Cái cảm giác tức tưởi của bài thơ càng dồn xuống lại càng bật lên. Âm điệu rắn rỏi của thể thơ càng thêm sự bùi ngùi của tình huống. Cái tên bài thuần chữ Hán cùng các từ ngữ cổ kính trang trọng đối chiếu với cuộc đi của đời thực, với diễn biến của tâm trạng, chỉ như một sự an ủi nhỏ nhoi, càng làm ta xót thương. Những yếu tố đó đã làm Tống biệt hành thành bài thơ hay và đầy vẻ lạ lùng so với các bài thơ cùng thời.
(Vũ Quần Phương, Thơ với lời bình, Sđd)