
Đọc hiểu Tì bà hành
Đọc hiểu Tì bà hành
– Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên.
– Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
ả thu nương ghen lúc điểm tô.
Thuở thanh xuân đã từng được sống cuộc sống vui vẻ nhưng rồi sự phũ phàng của thời gian và sự đen bạc của cuộc đời đã đẩy con người tài năng ấy đến cô đơn nơi bến vắng đìu hiu. Khi nhan sắc không còn thì tiếng đàn dù có tài hoa đến đâu cũng bị lãng quên :
Buồn em trảy lại lo dì thác,
Sầu hôm mai đổi khác hình dong ;
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết duyên cùng khách thương.
Nhưng cay đắng hơn khi tài năng ấy lại gửi vào nơi vô tình, vào tay kẻ không biết trọng nhân tài. Có lẽ, đây chính là điều làm cho Tư mã Giang Châu xúc động mạnh đến vậy. Và vì “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” nên người đã có sự đồng cảm sâu sắc với tâm sự của người kĩ nữ :
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Thân phận của người nghe đàn cũng có điểm giống với thân phận người kĩ nữ. Đó là một người có tài, có tình nhưng do không chịu sống uốn lưng bó gối nên cuộc đời cũng gặp bao cảnh lận đận, để rồi cuối cùng phải gác chí quân tử để sống cuộc sống ẩn sĩ nơi bến vắng, mang tiếng làm quan nhưng chẳng có việc gì để phát huy tài năng. Hai tài năng bị vùi dập và lãng quên đã bị đưa đẩy đến nơi :
Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên.
Trong cảnh ngộ ấy, tiếng đàn như khúc tiên nhạc làm lòng người thanh thản như trút được bầu tâm sự vẫn chất chứa trong lòng :
Tì bà nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Thơ của Bạch Cư Dị vốn luôn nặng trĩu tấm lòng nhân thế, dù là thơ “phúng thích” hay thơ cảm thương đều có giá trị phê phán hiện thực. Đó là hiện thực xã hội Trung Đường loạn li, trắng đen lẫn lộn. Trong một xã hội như thế, nhân tài khó được trọng dụng. Câu chuyện của người kĩ nữ hay tâm sự của Tư mã Giang Châu thì vẫn là nỗi lòng của Bạch Cư Dị về hiện thực xã hội, về những điều bất công của nhân tình thế thái. Có thể nói hình tượng người kĩ nữ chính là sự “khách thể hoá” hình tượng nhà thơ. Cuộc đối thoại tri âm tri kỉ giữa hai người có thể chính là sự phân thân của chủ thể trữ tình – nhà thơ. Đó là một hình thức để giãi bày tâm sự của nhà thơ, một con người biết nâng niu và trân trọng tài năng.
Sau những lời giãi bày tâm sự, tiếng đàn đã mang đến một sự đồng cảm giữa những người ngồi đó :
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh.
Trong đó người xúc động nhất là Tư mã Giang Châu, người có cùng cảnh ngộ và có tấm lòng nhân ái, biết trân trọng và tiếc thương những tài năng bị lãng quên một cách phũ phàng. Thời xưa, cầm, kì, thi, hoạ là những tiêu chuẩn để đo tài năng của con người, vậy mà một kĩ nữ với tiếng đàn từng xếp hàng đệ nhất thiên hạ lại bị vùi dập nơi lau lách đìu hiu. Cả người chồng của người kĩ nữ, vì kiếm tiền mà “Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi”, bỏ mặc người vợ tài hoa sống trong cảnh cô đơn. Tài năng bị lãng quên không chỉ là bi kịch của một con người mà còn là bi kịch của cả một thời đại, Bạch Cư Dị với tấm lòng nhân đạo cao cả của mình đã nối tiếp rất thành công nguồn cảm hứng đầy tính nhân văn này.
Với nghệ thuật kết hợp tài hoa giữa tả cảnh và tả tình, giữa trữ tình và tự sự, giữa thơ và nhạc, Bạch Cư Dị đã sáng tạo nên một kiệt tác nghệ thuật, đã làm sống dậy một bản đàn bạc mệnh thật ấn tượng. Sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận người ca nữ đã thể hiện tấm lòng nhân ái bao la của người nghệ sĩ, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp, đó là sự trân trọng tài năng.
III – Liên hệ
Đọc thêm bài Sông thu tiễn khách của Bạch Cư Dị :
Thu giang tống khách
Thu hồng thứ đệ quá,
Ai viên triêu tịch văn
Thị nhật cô chu khách,
Thử địa diệc ly quần,
Mông mông nhuận y vũ,
Mịch mịch mạo phàm vân.
Bất tuý Tầm Dương tửu,
Yên ba sầu sát nhân.
Dịch nghĩa:
Sông Thu Tiễn Khách
Mùa thu, chim hồng lần lượt bay qua,
Vượn hôm mai kêu thảm thiết,
Ngày ấy, khách trên thuyền trơ trọi,
Nơi đây cũng là nơi chia đàn.
Mưa ướt át thấm vào áo,
Mây man mác chắn cánh buồm.
Ruợu Tầm Dương chẳng thấy say.
Khói sông buồn chết người.
Dịch thơ:
Nhạn thu lần lượt bay qua,
Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai.
Ngày ấy một chiếc thuyền ai,
Nuớc non này cũng chia phôi cách đàn.
Mưa dầm vạt áo như chan,
Buồn ai man mác mây ngàn đón ngang.
Chẳng say chén rượu Tầm Dương,
Khỏi sao sóng khói sầu thương chết người.
Tản Đà dịch
(Thơ Đường ở Việt Nam, NXB Hội Nhà văn, 2001)