Pair of Vintage Old School Fru
Đọc hiểu Đây thôn vĩ dạ của Hàn Mặc Tử

Đọc hiểu Đây thôn vĩ dạ của Hàn Mặc Tử

Đánh giá: 7/10

Đọc hiểu Đây thôn vĩ dạ của Hàn Mặc Tử

Đặc biệt không vườn nào, dù nghèo nhất lại thiếu một mảnh cây kiểng (cây cảnh) trước sân, khách đến là thay chủ đón cười với khách trước khi khách được tiếp bằng hớp trà uống trong cái chung (cái chén) nhỏ xíu mà chủ nhân vừa chùi tro, lòng chung trắng muốt. Nhỏ nhẹ thanh trong, kín đáo, lịch sự từ giọng nói trở đi, từ cô hàng thanh trà đến các bậc cao sang… Đó là Huế, đó cũng là Vĩ Dạ…


(Lê Trí Viễn, Đến với thơ hay, Sđd)


2. … Đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Đi tìm sự đồng cảm, đồng điệu trong cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mù mịt. Cho nên, đắm say rồi nguội lạnh, băng giá, mộng rồi lại tỉnh. Đó là lôgíc vận động tâm trạng của một cái Tôi ham sống, yêu đời trong Đây thôn Vĩ Dạ. Lôgíc tâm trạng đã chi phối lôgíc phong cảnh và tổ chức điệu giọng trữ tình. Cảnh lúc như gần, lúc như xa, lúc rất thực, càng về sau càng trở nên hư ảo, huyền hồ. Sắc điệu tiếng nói trữ tình lúc âm u, lúc chói lạnh. Nhưng giọng điệu chủ đạo của tiếng nói ấy vẫn là giọng điệu bâng khuâng, đầy mơ mộng.


Đây thôn Vĩ Dạ là tiếng nói của một cái Tôi bơ vơ, cô đơn, là khát vọng ngàn đời của con người về sự đồng cảm, đồng điệu, mà tình yêu và hạnh phúc lứa đôi là biểu hiện cao nhất.


Thể hiện khát vọng về sự đồng điệu, Hàn Mặc Tử đã tạo ra một công trình nghệ thuật đạt tới sự hài hoà lí tưởng : Đây thôn Vĩ Dạ là tốc kí tâm trạng, nhưng nhạc thơ chưa vượt trước lời thơ, phá vỡ lôgíc ngữ nghĩa thông thường, khiến tiếng nói trữ tình thành chuỗi phát ngôn thác loạn. Vì thế lời thơ trong sáng, tao nhã, mà vẫn giản dị. Lấy tình làm điểm tựa để vẽ cảnh, nhưng tình chưa tràn ra ngoài cảnh, biến cảnh thành những hình hài méo mó, dị dạng giống như bóng dáng của yêu ma. Được tắm đẫm trong cảm hứng lãng mạn, cuộc sống trần thế trong Đây thôn Vĩ Dạ hiện lên lung linh, kì diệu mà không kì bí. Kinh nghiệm của cái Tôi cá nhân Hàn Mặc Tử chưa vượt vòng kiểm soát của kinh nghiệm cá nhân Ta. Với Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử vẫn đứng giữa mảnh đất của thi ca lãng mạn, chưa bước qua địa hạt của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Cho nên, diễn đạt theo cách Hoài Thanh, bài thơ “Vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”.


(Lã Nguyên, Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam)


3. Khi Tử làm Sở Đạc điền Quy Nhơn, Tử có yêu một thiếu nữ ở cùng một con đường – đường Khải Định – biệt hiệu là Hoàng Cúc.


Mối tình giữa một anh chàng đôi mươi và một cô nàng mười lăm mười bảy, lẽ tất nhiên là trong đẹp, nên thơ. Để tỏ lòng cùng người yêu, Tử có bài Vịnh hoa cúc :


Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa


Sương điểm trăng lồng bóng thướt tha.


Vẻ mặt khác chi người quốc sắc


Trong đời tri kỉ chỉ riêng ta.


Và bài Trồng hoa cúc :


Thích trồng hoa cúc để xem chơi,


Cúc ngó đơn sơ, lắm mặn mòi.


Đêm vắng gần kề say chén nguyệt,


Vườn thu vắng vẻ đủ mua vui.


Tình thơ lợt lạt và có vẻ “nhà nho”. Đừng đổ tội cho thể thơ. Cũng đừng tưởng mối tình của Tử đối với Hoàng Cúc không nồng nàn. Đó là do ảnh hưởng của thời đại.


Thời bấy giờ phong trào lãng mạn tuy đã bành trướng khắp nơi, song ở Quy Nhơn, ảnh hưởng chưa được sâu sắc. Chữ Lễ còn đi kèm bên chữ Yêu chẳng khác mụ vú già theo kèm cô chủ dậy thì có nhan sắc. Cho nên cách tỏ tình cần phải kín đáo, tình tỏ ra không dám sỗ sàng.


Hai bài thơ trên phản ánh thái độ yêu đương của thanh niên thời bấy giờ mà Tử là một.


Nhưng thường được gần gũi với người yêu, thì tâm trạng của Kim Lang đêm trăng nơi vườn Thúy, không còn là tâm trạng riêng của chàng trai đời Gia Tĩnh triều Thanh, mà là tâm trạng chung của Nòi Tình muôn thuở. Cho nên đối với Hoàng Cúc đã có lần Tử muốn gác lễ nghĩa một bên.


Tử có đọc cho tôi nghe một bài thơ, theo Tử, chưa đọc cho ai nghe hết, và dặn tôi phải giấu kín, rằng :


Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường,


Không dám sờ tay sợ tấm hương.


Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá.


Muốn ôm hồn cúc ở trong sương.([1])


Chân tướng của Tử đã hiển hiện rõ rệt trong bài thơ này. Tình của Tử đối với Hoàng Cúc đâu phải không đượm đà, đâu phải không bồng bột. Tử chỉ gìn giữ đó thôi, dè dặt đó thôi.


Tử gìn giữ cho tình yêu trong trắng. Tử dè dặt vì nền nếp Nho gia. Và dè dặt gìn giữ để được thấy dưới bóng đuốc hoa cái gì cao quý nhất của người thục nữ : Tử muốn đưa tình yêu vụng lén đến cuộc hôn nhân. Nhưng hôn sự bất thành ! Bất thành không phải vì Tử gặp cảnh rủi ro của chàng Kim Trọng. Bất thành vì vấp phải trường hợp của Tản Đà khi nhờ người dạm hỏi Đỗ Thị. Nghĩa là thân sinh của Hoàng Cúc – lúc bấy giờ làm tham tá Sở Đạc điền mà Tử là tùy thuộc – chê Tử không xứng mặt đông sàng !(*).


Tử thôi làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn để vào Sài Gòn làm báo, chính vì bị chê không có địa vị cao sang. Ghé vào Nha Trang thăm tôi, khi đi Sài Gòn, Tử nói :


– Đi chuyến này, tôi quyết xây sự nghiệp văn chương cho thật vững vàng, thử xem người ta có còn dám khi dể(**).


Nhưng khi Tử có địa vị hẳn trong làng văn làng báo, thì Tử lại gặp Mộng Cầm, và khi Tử trở về Quy Nhơn cho xuất bản Gái quê thì Hoàng Cúc đã theo gia đình về Huế.


Thế là cùng Hoàng Cúc một xa, Tử không còn gặp lại.


Tuy không gặp lại, nhưng mối tình của Tử đối với Hoàng Cúc là mối tình đầu – như lời Thế Lữ :


Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,


Ngàn năm chưa dễ đã ai quên.


Mối tình đầu của Tử đã để dấu sâu đậm trong tập Gái quê. Những bài như :


Trước sân anh thơ thẩn


Đăm đăm trông nhạn về


(Tình quê)


Từ gió xuân đi gió hạ về


Anh thường gửi gắm mối tình quê


(Âm thầm)


là nỗi lòng nhớ thương Hoàng Cúc từ lúc Tử ở Sài Gòn. Vì vậy ban đầu Tử đã định đề tặng Gái quê cho Hoàng Cúc, nhưng sau nghĩ có điều bất tiện, nên đành phải chôn kín nỗi lòng.


Khi Tử đau nằm ở Quy Nhơn, Hoàng Cúc có gởi vào tặng Tử một phiến ảnh “cô gái Huế” với lời mời “ra chơi Vĩ Dạ”. Tạ lòng tri kỉ, Tử gởi tặng lại một bài thơ nhan là Đây thôn Vĩ Dạ.


(Quách Tấn, Hàn Mặc Tử hôm qua và hôm nay, NXB Hội Nhà văn, 1995)





([1]) Hai câu này sau Tử lấy đem vào một bài trường thiên, bài Mơ hoa.




(*) Theo Nguyễn Bá Tín, lí do là vì một bên theo đạo Thiên Chúa, bên kia theo đạo Phật (VTN).




(**) Khinh rẻ.