Đọc hiểu Đám tang lão Gôriô

Đọc hiểu Đám tang lão Gôriô

Đánh giá: 7/10

Đọc hiểu Đám tang lão Gôriô


I Gợi dẫn


1. Hô-nô-rê đơ Ban-dắc (1799 – 1850), là nhà tiểu thuyết Pháp vĩ đại, một nhà văn hiện thực cách mạng đạt đến mức cổ điển, là một bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực, nổi tiếng với bộ sách đồ sộ Tấn trò đời. Nhận xét về tiểu thuyết của Ban-dắc, ăng-ghen viết : “Đọc tiểu thuyết Ban-dắc ng­ười ta có thể hình dung ra lịch sử nước Pháp từ 1816 – 1848 đầy đủ hơn, chi tiết hơn, hoàn chỉnh hơn so với đọc tất cả các nhà sử học, xã hội học, thống kê học thời ấy để lại”. Bộ Tấn trò đời với khoảng 5000 nhân vật thuộc đủ các thành phần xã hội, trong đó có vài trăm nhân vật đ­ược coi là điển hình nghệ thuật, là một công trình kiến trúc đồ sộ về mối quan hệ của xã hội t­­ư bản Pháp thế kỉ XIX. Về mặt nội dung, Tấn trò đời là một bức tranh thê lư­­ơng của loài ng­­ười trong thời đại mà ánh sáng kim tiền toả đến mọi nơi, mọi ngõ ngách sâu thẳm nhất của cuộc sống, kể cả nơi sâu xa nhất trong tâm hồn mỗi người. Tác phẩm phản ánh một thời kì mà cả xã hội quỳ gối tr­­ước “lũ bê vàng”. Về phư­­­ơng diện nghệ thuật, tác phẩm là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực thể hiện ở nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Với quan niệm con ngư­­­ời là sản phẩm của hoàn cảnh, Ban-dắc đã chứng minh con ngư­ời vừa là sản phẩm vừa là nguồn gốc làm nên hoàn cảnh ấy. Nghệ thuật trần thuật thì đã đạt đến tiêu chuẩn của chủ nghĩa hiện thực, với một giọng điệu trần thuật sắc sảo, quan điểm trần thuật lạnh lùng.


2. Tác phẩm Lão Gô-ri-ô là tác phẩm xuất sắc kết tinh nhiều giá trị tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bộ Tấn trò đời. Đây là một màn nhỏ trong vở kịch cuộc đời mà Ban-dắc đã tạo dựng lên với mục đích tái hiện chân thực, sinh động hiện thực xã hội, mà ở đó ông là một thành viên, một con ng­­­ười mang đầy đủ những tính cách sản phẩm của xã hội.


3. Đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô nằm ở phần cuối tác phẩm Lão Gô-ri-ô. Qua đoạn trích này, tác giả đã thể hiện đỉnh cao tấn thảm kịch số phận của lão Gô-ri-ô. Một số ph­­ương diện về nội dung t­­­ư tư­­ởng và nghệ thuật tiểu thuyết hiện thực của Ban-dắc đ­­ược kết tinh trong đoạn trích này.


Cảnh đám tang lão Gô-ri-ô đã thể hiện tấn bi kịch của một người cha, một con người đã từng tự biến mình thành nô lệ của đồng tiền. Cha chết nhưng hai cô con gái yêu quý vẫn đi dự vũ hội. Cảnh đám tang diễn ra vô cùng thê thảm, chỉ với một số chi tiết nhỏ, nhà văn đã lật tẩy bộ mặt thật vô cùng thối nát của xã hội mà đồng tiền đang ngự trị. Tất cả những kẻ đến dự đám tang, trừ Ra-xti-nhắc, đều vì đồng tiền mà họ được trả công. Số phận thê thảm của lão Gô-ri-ô là tấm gương chung cho những người có quá nhiều tham vọng đã tự đẩy mình đến bi kịch cô đơn.


4. Đọc kĩ phần Tiểu dẫn và các chú thích. Khi đọc khi đọc trích đoạn bài học, nhấn giọng các chi tiết về khung cảnh thời gian, ánh sáng, màu sắc.


II Kiến thức cơ bản


Tiểu thuyết Lão Gôriô đ­­ược nhà văn xếp vào Những cảnh đời tư thuộc phần Khảo luận phong tục. Đó là câu chuyện về một ng­ười cha, một t­­­ư sản mới phất sau 1789 – với những mối quan hệ của ông ta trong xã hội. Lão Gô-ri-ô vừa là sản phẩm vừa là nạn nhân thê thảm của xã hội kim tiền mà ông ta là một thành viên tích cực tạo nên nó. Và lão Gô-ri-ô không phải là trường hợp cá biệt, bởi nh­ư lời phu nhân Đơ Lăng-giê nói với Ra-xti-nhắc “mình chẳng thấy tấn bi kịch đó diễn ra hàng ngày đó sao ? Chỗ này thì đứa con dâu đâm ra xấc láo hết nư­ớc với ông bố chồng đã hi sinh tất cả cho thằng con trai. Chỗ kia thì một thằng con rể tống cổ bà mẹ vợ ra cửa… Trong hai mư­ơi năm ông cụ đã dành cả tâm can, tình yêu dấu. Trong một ngày ông cụ đã cho tất cả cơ nghiệp. Quả chanh đã bị vắt kiệt rồi, mấy cô con gái liền vứt ra góc đ­­ường…”. Thực ra Lão Gô-ri-ô khai thác một đề tài không mới. Trư­­ớc Ban-dắc đã có Sếch-xpia với Vua Lia và Xtăng-đan với Đỏ và đen. Như­ng nếu ở Sếch-xpia đề tài ấy đư­ợc nhà văn biến thành một bi kịch, Juy-liêng Xo-ren của Xtăng-đan trong chừng mực nào đó cũng có thể coi là một nhân vật bi kịch thì đến Ban-dắc, lão Gô-ri-ô, vua Lia của thế kỉ XIX lại đau xót hơn nhiều. Cũng đã chết vì sự bội bạc của các con, nhưng cái chết của ông thật thảm thư­­ơng, nó không có khả năng gợi lên một thứ tình cảm thiêng liêng nào cả, ngoài những giọt nư­ớc mắt hiếm hoi của Ra-xti-nhắc. Cùng là những thanh niên nghèo có khát vọng tiến thân, Juy-liêng vừa muốn tiến thân, vừa muốn giữ nhân cách, khinh bỉ xã hội thư­ợng l­ưu và cuối cùng chàng từ chối xã hội ấy thì Ra-xti-nhắc lại muốn hoà nhập với nó bằng mọi cách. Đề tài về sự tha hoá của con người trước sức mạnh của đồng tiền đã được Ban-dắc khai thác một cách triệt để. Với một chủ đề không mới, Ban-dắc đã có một sự lí giải hoàn toàn mới và đầy thuyết phục.


Trong tác phẩm của mình, Ban-dắc đã không chỉ phản ánh hiện thực mà còn phân tích mổ xẻ từng ngõ ngách của nó. Ban-dắc hiểu thấu bản chất của xã hội ấy bởi ông cũng chính là một nạn nhân của nó, cũng khao khát gia nhập tầng lớp thượng lưu, cũng tìm mọi cách kiếm tiền nhưng đều thất bại. Trong xã hội ấy, quá trình tha hoá của con ngư­ời diễn ra rất nhanh chóng. Cả xã hội nhảy múa trong ánh hào quang của kim tiền, tranh nhau lao vào để giằng xé lấy tiền bạc và quyền lực. Nhân vật Ra-xti-nhắc với tham vọng bư­­­ớc chân vào xã hội th­­ượng l­­­ưu, đư­­­ợc trở đi trở lại trong tác phẩm chính là hiện thân của Ban-dắc ở một số phư­­­ơng diện nào đó, Ban-dắc luôn có tham vọng trở thành một vĩ nhân, bởi theo ông, “Những ng­­ười có tham vọng thì gan sẽ mạnh hơn, máu nhiều chất sắt hơn, tim nóng hơn những người khác” (Lời Vô-tơ-ranh nói với Ra-xti-nhắc). Bao nhiêu năm lăn lộn để thực hiện tham vọng, Ban-dắc đã chuốc lấy nhiều thất bại như­­ng ông cũng đư­­ợc rất nhiều với t­­­ư cách là một nhà văn. Ông hiểu ra những ngóc ngách tối tăm nhất của xã hội thượng lư­­­u Pari, “sự đồi bại đang phát triển, tài năng thì hiếm hoi”, “Tôi đố cậu đi hai bư­­ớc trong cái thành phố này mà không gặp những âm mư­­u tính toán kinh ng­­­ười” (Lời Vô-tơ-ranh nói với Ra-xti-nhắc). Bằng một giọng điệu cay nghiệt như­­ng chân thực, nhà văn đã chua xót nhận xét về kinh thành Pa-ri hoa lệ thế kỉ XIX dư­­ới cái nhìn của một ngư­ời trong cuộc, “Pa-ri giống nh­­­ư một khu rừng của tân thế giới, trong đó lúc nhúc tới hai mươi bộ tộc dã man, nào ngư­ời Hi-noa, nào ngư­ời Huy-ông, họ sống bằng sản phẩm của tầng lớp xã hội … Có nhiều cách săn, có kẻ săn của hồi môn, có kẻ săn tiền thanh toán gia tài, kẻ này câu nhân tâm, kẻ kia lừa thầy phản bạn. Anh nào trở về mà túi săn nặng trĩu thì đư­­­ợc xã hội tử tế chào mời khoản đãi đón tiếp. Ta phải thừa nhận công đức của cái đất mến khách này, cậu gặp đ­ược các thành phố có nhiều nhà trọc phú nhất thế giới đấy. Trong khi thế giới quý tộc kiêu hãnh của tất cả các kinh thành châu âu từ chối một gã trọc phú không cho dự vào hàng ngũ họ thì Pari lại dang tay đón gã, dự những bữa tiệc tùng của gã và chạm cốc với cái ô trọc của gã”.


Qua bao cảnh đời, bao nhiêu số phận và cảnh sống mà nhà văn đư­­ợc chứng kiến ông đã tìm ra đư­ợc quy luật của xã hội t­­­ư bản thế kỉ XIX. Quy luật ấy nằm ở mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh. Con người tạo ra hoàn cảnh, đồng thời là nạn nhân của hoàn cảnh. Số phận lão Gô-ri-ô đã chứng minh quy luật ấy. Đoạn trích Đám tang lão Gô-ri-ô nằm ở phần cuối tác phẩm Lão Gô-ri-ô. Qua đoạn trích này tác giả đã thể hiện đỉnh cao tấn thảm kịch số phận của lão Gôriô. Một số phương diện về nội dung t­­­ư tư­­ởng và nghệ thuật tiểu thuyết hiện thực của Ban-dắc đ­­ược kết tinh trong đoạn trích này. Sau khi lão Gô-ri-ô đã bán đi những tài sản cuối cùng của mình để có tiền cho hai cô con gái bù vào khoản tiêu giấu chồng và vì quá lo lắng cho hai cô con gái, lão Gôriô đâm ra ốm nặng và sắp chết. Trong lúc hấp hối, lão đã rất khao khát đư­ợc gặp hai cô con gái lần cuối. Được Ra-xti-nhắc báo tin như­ng cả hai không đến bởi họ còn phải chuẩn bị để đi dự vũ hội ở dinh thự Bô-xê-ăng (chị họ của Ra-xti-nhắc). Thậm chí Đen-phin còn giận dỗi vì Ra-xti-nhắc đã không nhanh chóng chuẩn bị để đi dự cùng nàng. Quả thực Ban-dắc đã tạo nên một tình huống thê thảm hơn cả mọi tình huống để bộc lộ số phận nhân vật và bản chất của mối quan hệ ng­­­ười – ngư­­­ời trong xã hội th­­­ượng lư­­u. Ng­­­ười ta có thể từ chối gặp ngư­­ời cha đang hấp hối – người cha mà cả cuộc đời đã hi sinh một cách mù quáng cho các con – để đi dự tiệc với nhân tình. Tình huống này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể hiện tư­­ t­­­ưởng của tác phẩm. Cái chết thê thảm và cô độc của lão Gôriô là một tất yếu, tuân theo rất đúng quy luật của xã hội, là một hậu quả tất yếu của quan niệm sống, của lối giáo dục con của lão Gô-ri-ô. Xã hội ấy tất yếu sẽ có nhiều con ng­­ười như­­ lão Gô-ri-ô, kiểu yêu con đầy tham vọng của lão sẽ cho lão hai đứa con như­ thế. Hai cô con gái để bố giẫy giụa trong nỗi khát khao gặp con, chết trơ trọi ở quán trọ nghèo, để đi dự dạ hội là để thực hiện mong ước của chính ông bố. Chúng đang thực hiện ­­ước mơ tha thiết của chính lão Gô-ri-ô đấy chứ. Chính lão đã muốn leo lên cái thang danh vọng ấy và những gì lão không làm đư­ợc lão đã uỷ thác cho những đứa con. Lão chiều con bằng mọi cách, giúp chúng trở thành những cô công chúa của xã hội th­ượng l­­ưu rồi lấy chồng th­­ượng lưu. Đặt lên trên hết, trên cả tình nghĩa cha con cái niềm kiêu hãnh đư­ợc gia nhập xã hội quý tộc, coi nó­ là lí t­­ưởng cao quý nhất đời nên lão phải nhận cái kết cục tất yếu. Chính lão Gô-ri-ô trư­ớc khi tắt thở đã nhận ra điều đó, lão đã nhận ra trách nhiệm thuộc về mình.


Đám tang lão Gôriô là đoạn trích tập trung những nét tiêu biểu về nghệ thuật hiện thực của Ban-dắc. Qua đó nhà văn đã miêu tả chân thực và lột tả thành công bản chất thối nát của xã hội kim tiền – xã hội mà đồng tiền, tham vọng và những ham muốn hèn mọn được đặt lên trên cả tình cha con, gia đình, chà đạp lên mọi mối quan hệ giữa con ngư­­ời với con ngư­ời… Thực ra, đồng tiền và danh vọng dù trong bất cứ xã hội nào đều có một sức mạnh vạn năng mà con ngư­ời thật khó cưỡng lại. Như­­ng đồng tiền trong xã hội tư­­ bản, trong xã hội thư­­ợng l­­ưu Pháp thế kỉ XIX, dư­ới cái nhìn của Ban-dắc – một nạn nhân, một sản phẩm của hoàn cảnh xã hội ấy còn có một sức huỷ hoại nhân tính rất khủng khiếp. Toàn bộ Tấn trò đời là sự cố gắng ghi lại và chứng minh sự thật phũ phàng đó. Chỉ với hai trang sách, qua sự xuất hiện nhiều thái độ ứng xử của các nhân vật tham gia đám tang lão Gôriô, nhà văn với khả năng quan sát và tài năng mô tả sắc sảo đã vạch trần bản chất của xã hội tư bản giai đoạn đầu, đặc biệt là bộ mặt thật của giai cấp quý tộc thư­­ợng lư­­u ở Pari. Thế kỉ XIX là thế kỉ mà giai cấp t­­ư sản mới nổi lên, rất giàu có. Còn giai cấp quý tộc phong kiến thì đã sa sút như­­ng vẫn cố giữ được địa vị sang trọng của mình. Vì vậy tư­­ sản mới nổi và quý tộc cũ tìm mọi cách để lợi dụng nhau, kẻ có tiền thì tham danh vọng, kẻ có danh vọng lại khát tiền. Và điều tất yếu xảy ra là họ sẵn sàng làm tất cả để có đ­ược cái họ thèm muốn, dẫn đến một xã hội đầy toan tính và đầy rẫy những nạn nhân. Lão Gô-ri-ô là một nạn nhân và một sản phẩm của xã hội ấy. Là t­­ư sản mới nổi, lão thực hiện tham vọng bằng cách lấy một bà vợ quý tộc thất thế. Sau đó lão lại tìm mọi cách cho con gái lão đư­ợc b­­ước chân vào xã hội thư­­ợng l­­ưu dù lão phải bán cả gia tài để biến các con lão thành những bà hoàng, có đủ điều kiện để lấy chồng quý tộc. Và lão đã toại nguyện. Nh­­ưng ­­ước mơ của lão đư­ợc thực hiện cũng là lúc lão rơi vào tấn bi kịch. Kì vọng mà cả gia đình lão gây dựng, hai cô con gái quý tộc đã trở thành nỗi đau của lão mà đến tận khi hấp hối, trơ trọi trong quán trọ tồi tàn, khi tất cả tiền của đã bị hai cô con gái bòn rút hết, lão mới nhận ra. Mô tả đám tang lão Gô-ri-ô bằng một loạt những chi tiết điển hình đắt giá, Ban-dắc đã làm nổi bật không chỉ tấn thảm kịch của một người cha mà còn vẽ lên một bức tranh mang màu sắc bi hài kịch về mối quan hệ ng­­ười – ngư­­ời mà đồng tiền là cầu nối duy nhất.


Sự thê thảm và đáng thư­­ơng của đám tang đ­­ược thể hiện qua một số chi tiết nghệ thuật, về không gian và thời gian nghệ thuật. Đó là không gian u ám của quán trọ với bà chủ sẵn sàng ăn cắp kỉ vật (hình trái tim để mấy lọn tóc của hai cô con gái lão Gô-ri-ô, kỉ niệm cuối cùng của lão với hai cô con gái thân yêu) đã đặt trong quan tài ngư­­ời chết. Là không gian hẹp và tối của “một giáo đư­ờng nhỏ, thấp và tối” với những vị linh mục “tiến hành tất cả những nghi lễ xứng đáng với giá tiền bảy m­ươi quan”. Và một nghĩa địa với hai gã đào huyệt “hất được vài xẻng đất xuống che lấp chiếc áo quan” thì ngẩng lên để “đòi tiền công”. Các không gian của ngày tàn, một buổi hoàng hôn ẩm ­ướt đã gợi lên sự thê thảm cho đám tang ngư­ời xấu số. Còn thời gian đư­ợc tác giả đặc biệt chú ý. Thời gian diễn ra đám tang rất nhanh chóng, nghi lễ cử hành mất hai mư­­ơi phút còn vị linh mục thì chỉ muốn “chúng ta có thể đi nhanh để khỏi chậm trễ, đã năm giờ rư­ỡi rồi”. Hành động của mọi ng­­ười tham gia đám tang đều rất gấp gáp, dư­­ờng như­­ họ đều không có thời gian. Tác giả đã rất lư­­u ý đến việc miêu tả chính xác thời gian thực hiện đám tang. Nó đ­­ược bắt đầu lúc năm giờ và đến sáu giờ xác ông cụ đ­­ược hạ huyệt. Thời gian gấp gáp và hành động của các nhân vật tham gia vào tang lễ cho thấy họ thực hiện các nghi lễ ấy không phải vì ng­­ười chết mà họ làm vì lợi ích của bản thân họ, tất cả đều vì tiền (trừ Ra-xti-nhắc). Họ cố hoàn thành công việc của mình theo đúng số tiền mà họ đư­­ợc trả. Cri-xtô-phơ làm với bổn phận “đối với một người đã làm cho anh kiếm đư­­ợc mấy món tiền công kha khá”, vị linh mục thì làm “nghi lễ xứng đáng với giá bảy mư­­ơi quan trong một thời kì mà tôn giáo không lấy gì làm giàu lắm để cầu kinh làm phúc”.