Đọc hiểu bài thơ Hoàng Hạc lâu

Đọc hiểu bài thơ Hoàng Hạc lâu

Đánh giá: 7/10

Đọc hiểu bài thơ Hoàng Hạc lâu

Mỗi khi hoàng hôn xuống, hơi nước cùng sương mờ quyện vào nhau, tạo nên không gian mờ ảo, dễ gợi buồn, đây cũng chính là cái làm nên “yên hoa” trên sông Trường Giang mà chính Lí Bạch đã nói đến trong buổi tiễn đưa Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Màu tím của hoàng hôn gợi buồn, gợi nỗi nhớ quê trong lòng người lữ thứ. Vậy nỗi nhớ này quan hệ thế nào với khung cảnh tươi sáng ở hai câu thơ trên ? Lôgíc của cảm xúc nằm ở từ “thê thê” (mơn mởn). Trong Sở từ có câu “Vương tôn du hề bất quy, xuân thảo sinh hề thê thê” (Vương tôn ngao du chừ không về, cỏ xuân mọc lên chừ mơn mởn). Theo đó, có thể liên hệ rộng, mở nghĩa “cỏ mơn mởn” gợi tình quê. Có thể màu xanh tươi mơn mởn của cỏ xanh bãi Anh Vũ là một nhân tố tác động đến tâm trạng ở phần tiếp, cùng với sự chuyển động của thời gian, sự thay đổi của không gian dẫn đến nỗi nhớ trỗi dậy trong lòng người ngắm cảnh. Ngoài nỗi nhớ quê hương, nếu nối với mạch cảm xúc toàn bài thơ có thể hiểu thêm rằng “hương quan hà xứ thị” không chỉ là câu hỏi “Quê hương ở nơi nào ?” mà còn có thể hiểu rộng hơn là “Nơi nào để dừng chân, nơi nào là nơi có thể là nơi bình yên để sống”. Đây là vấn đề có ý nghĩa triết lí. Bốn câu thơ cuối cùng với nội dung tả thực cảnh thiên nhiên và tâm trạng của nhân vật trữ tình đã làm cho câu chuyện lầu Hoàng Hạc và người xưa gần hơn với cuộc đời.


Với khả năng vận dụng linh hoạt luật thơ và sáng tạo hình ảnh ngôn ngữ, nhà thơ Thôi Hiệu đã tạo nên giá trị hàm súc cho bài thơ. Chỉ với tám câu thơ bảy chữ, tác giả đã không chỉ nhắc đến truyền thuyết, nguồn gốc và vị trí của lầu Hoàng Hạc trong không – thời gian thực không – thời gian ảo mà còn thể hiện được những vấn đề triết lí nhân sinh có ý nghĩa. Hoàng Hạc lâu gợi nhiều liên tưởng khác nhau cho người đọc. Tâm trạng nuối tiếc, sự suy tư của tác giả trước sự còn mất, giữa hiện tại và quá khứ, giữa cái vô hạn của vũ trụ và sự hữu hạn của đời người đã gợi lên những liên tưởng về hiện thực xã hội. Đặt bài thơ vào hoàn cảnh ra đời, có thể dễ dàng liên hệ tư tưởng của nhân vật trữ tình trong bài thơ là tư tưởng của kẻ sĩ trong thời kì mà Thôi Hiệu đang sống, thời kì hiện thực xã hội đã đi vào rất nhiều tác phẩm của nhiều nhà thơ thời ấy, tiêu biểu là những bài “thi sử” của Đỗ Phủ. Rất có thể bài thơ ra đời khi nhà thơ đã chứng kiến cảnh suy tàn và sa đoạ của triều đình nhà Đường. Thời kì thịnh trị đã trôi qua và thực tại phũ phàng đã nảy sinh ở các thi nhân tâm trạng hoài cổ. “Hạc vàng” và “người xưa” là biểu tượng cho những điều tốt đẹp đã qua đi, nó làm cho người ta tiếc nuối. Lầu Hoàng Hạc được xây vào đời Tam quốc, cuối đời Hán. Tương truyền, đây vốn là một quán rượu, có một người mấy lần đến quán uống rượu nhưng đều không trả tiền, khất nợ mãi, đến lần thứ ba thì vẽ một con hạc lên tường để tặng chủ quán. Khi vỗ tay ba tiếng con hạc nhảy ra vui đùa. Chủ quán làm thử và thấy hiệu nghiệm. Từ đó khách đến uống rượu rất đông, quán rượu trở nên giàu có. Sau đó, ông khách trở lại cùng hạc vàng bay về trời. Chủ quán tưởng nhớ công ơn nên đã xây lầu Hoàng Hạc. Theo truyền thuyết thì sự giàu có của quán rượu là do hạc vàng mang lại. Hạc vàng – biểu tượng của sự giàu có thịnh trị – đã ra đi và không trở lại, chỉ còn lại những dấu ấn mà thôi.


Hoàng Hạc lâu là kiệt tác của Thôi Hiệu cả ở hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Nhà thơ đã có những sáng tạo rất riêng trong hình thức nghệ thuật để tạo nên một bức tranh đẹp về lầu Hoàng Hạc, qua đó thể hiện triết lí nhân sinh về cuộc đời. Đó vừa là những trăn trở về cuộc đời, vừa là tấm lòng tha thiết đối với quê hương. Và vượt lên tất cả là tấm lòng trân trọng những giá trị tốt đẹp của quá khứ, từ đó trân trọng những điều tốt đẹp của cuộc sống hiện tại. Với những ý nghĩa nhân văn cao đẹp ấy, bài thơ đã thể hiện khao khát và ước mơ về một cuộc sống có thật nhiều những điều tốt đẹp bởi đó là giá trị thực của cuộc sống.


III liên hệ


Bài thơ mở đầu bằng tâm lí hoài cổ, đóng bằng nỗi nhớ quê của khách tha hương. Chữ “sầu” (buồn) rơi xuống vị trí cuối bài thơ tự nhiên như hạ bút mà thành. Và từ vị trí ấy, nó như chuyển thành một lớp khói sương mỏng mảnh dâng lên bọc lấy toàn bộ ý cảnh trong tác phẩm. Đồng thời, nó trở thành mối sầu đồng vọng với bao thế hệ thi nhân về sau. Nghiêm Vũ (đời Tống) bình : “Hoàng Hạc lâu với bút pháp tuyệt kì quả thật là một tác phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ Đường luật”. Lời bình ấy, dành cho bài thơ này của Thôi Hiệu quả là xứng đáng.


 (Nguyễn Văn Mỳ,Tác gia tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường,


                                                               NXB Giáo dục, 1999)