Old school Swatch Watches
Tác giả Nguyễn Đình Chiểu

Tác giả Nguyễn Đình Chiểu

Đánh giá: 7/10

Tác giả Nguyễn Đình Chiểu

Tính chất tự truyện thể hiện qua những chi tiết có tính chất bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Chính nội dung tự thuật này đã bao quát toàn bộ cốt truyện và thể hiện suốt chiều dài tác phẩm. 


Lục Vân Tiên thể hiện giấc mơ Ðồ Chiểu Người thanh niên bị phụ tình đã ước mơ một mối tình chung thủy. Chàng ước mơ những cử chỉ anh hùng, mơ ước trả nợ nước non và tâm sự ấy chàng đã gửi vào Tử Trực, vào Hớn Minh, nhất là vào Vân Tiên. Vân Tiên cũng bị mù nhưng sẽ có thuốc tiên chữa cho sáng mắt ra. Vân Tiên sẽ thực hiện cái chí bình sanh của Nguyễn Ðình Chiểu(*) 


Ngoài giấc mơ riêng tư còn là giấc mơ chung về cuộc đời rộng lớn mà tự nó đã thể hiện ý nghĩa xã hội sâu sắc. 


2.Ðến một lý tưởng xã hội:


 -Lục Vân Tiên là cả một xã hội, tất nhiên là xã hội phong kiến với đầy đủ các hạng người: Vua quan, thứ dân, đứa ở, kẻ sĩ… Một xã hội với đầy đủ những người tốt, kẻ xấu. Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng ra cả một cuộc đời để gửi gấm lý tưởng xã hội của mình.


-Nhà thơ đã xây dựng những mẫu người lý tưởng, qua những nhân vật lý tưởng, ông muốn xây dựng một xã hội lý tưởng. Ở đó, cái tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng mộ, người tài đức được trọng dụng, các oan khuất được giải minh. Tóm lại, đó là xứ sở của điều thiện, lẽ sống công bằng và lòng nhân ái.


 -Bên cạnh đó, nhà thơ phê phán những bất nhân, bất nghĩa. Qua diễn tiến và kết cục của số phận nhân vật phản diện trong tác phẩm, Nguyễn Ðình Chiểu muốn nói lên rằng muốn xây dựng một xã hội lý tưởng phải tiêu diệt những hạng người xấu xa, độc ác.


Cách xử lý này tuy có phần ảo tưởng và thỏa hiệp nhưng có ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó thể hiện sự cao thượng và càng làm cho tính cách của nhân vật chính diện càng lý tưởng hơn, thể hiện được tư tưởng lạc quan của nhân dân: Cái ác, cái xấu dẫu được người tha, thì vẫn là Trời không dung, đất không tha.


 -Tác phẩm có xây dựng các yếu tố thần kỳ: Giao long, phật bà, du thần, hai đạo bùa… Các yếu tố thần kỳ này đã được sự tiếp tay, tiếp sức cho chính nghĩa, thể hiện khát khao công lý và nhân ái của nhân dân.


 1.4.Vài đặc điểm về nghệ thuật:


1.Kết cấu:


 Kết cấu không khác mấy so với truyện thơ Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu thế kỷ XIX, là vẫn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập nhau nhưng trong Lục Vân Tiên sự đối lập được thể hiện trong từng cặp nhân vật một: Hớn Minh >< Trịnh Hâm; Tử Trực >< Bùi Kiệm; Kiều Nguyệt Nga >< Võ Thể Loan> xây dựng kiểu kết cấu này giúp tác giả trực tiếp bày tỏ quan điểm của mình. 


2.Sự chuyển ý:


 Lục Vân Tiên là một tác phẩm được sáng tác để kể hơn là để xem nên cách chuyển ý rất đơn giản và thoải mái. Từng chương, mục trong tác phẩm không đòi hỏi sự liền mạch và nhất quán vì ở mỗi chương, mục là một nội dung, là một câu chuyện riêng. Ta vẫn có có thể đọc từng hồi, từng thứ, từng đoạn nhưng vẫn hiểu mục đích và nội dung của tác phẩm. Chẳng hạn như đoạn thương ghét của ông Quán, sự triết lý của ông Quán, ông Ngư, ông Tiều về sự đời, hay những đoạn chế giễu sự khoác lác, bịp bợm của bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… đều gây ấn tượng mạnh mẽ:


Pháp rằng: Aán đã cao tay


Lại thêm phù chú xưa nay ai bì


Qua sông cá thấy xếp vi


Vào rừng cọp thấy phải quỳ lại thưa



Cuối cùng cũng lộ rõ mục đích thực dụng của chúng:


Có ba lạng bạc trao sang

Thì Thầy sắm sửa lập đàn chạy cho.


 


3.Ngôn ngữ:


 Tác phẩm này được sáng tác trong hoàn cảnh mù lòa nên nhiều chỗ còn thô vụng. Tuy nhiên ngôn ngữ trong Lục Vân Tiên phục vụ đắc lực cho việc kể. Phần nhiều là những lời thơ nôm na, mộc mạc, chất phác, dễ nhớ, dễ truyền miệng trong dân gian. 


4.Sử dụng thành ngữ, ca dao:


 Thành ngữ, ca dao đã tham gia hình thành Lục Vân Tiên khá độc đáo. Thí dụ như đoạn đối đáp của ông quán với Trịnh Hâm…


 5.Ðiển cố:


 Ðiển cố được lấy từ tích các truyện Tàu, là những điển tích quen thuộc với nhân dân. Ví dụ như đoạn Tử Trực mắng cha con Võ Thể Loan; đoạn thương ghét của ông Quán…


 6.Xây dựng tính cách nhân vật:


 Trong tác phẩm Lục Vân Tiên có đoạn nhà thơ đặt chân vào hoàn cảnh có kịch tính, có nhiều chỗ nhân vật cần bộc lộ tâm trạng nhưng nhà thơ chưa thể hiện hết tâm trạng đó. Vì vậy, tâm lý nhân vật còn nhiều khô khan, gò bó, gượng gạo. Ðoạn Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, đoạn sum họp.


 Lục Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết thúc một giai đoạn văn học. Tác phẩm đã kế thừa nhiều mặt truyền thống củ văn học nhân gian, của truyện thơ Nôm bình dân, đã thể hiện trữ tình đạo đức và tính nhân dân sâu sắc. 





2.Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu:

 






2.1.Ðặc điểm về thơ văn yêu nước chống Pháp:


 – Thơ văn yêu nước của Nguyễn Ðình Chiểu thể hienä tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Ðình Chiểu đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của cha ông trong kháng chiến chống ngoại xâm. Tiêu biểu là tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi:


 Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân


Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. 


– Trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Ðình Chiểu, tư tưởng nhân nghĩa được mở rộng thành lời kêu gọi động viên kêu gọi cứu nước: 


Mến nghĩa bao đành làm phản nước


Có nhân nào nỡ phụ tình nhà

(Dương Tử-Hà Mậu)


Ông đã từng tâm niệm: 


Hễ làm người chớ ở hai lòng

Ðã vì nước phải theo một phía 


Và sử dụng thơ văn yêu nước làm vũ khí đấu tranh sắc bén: 


Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm.


Ðâm mấy thằng gian bút chẳng tà 


– Nguyễn Ðình Chiểu đã xác định vị trí chiến đấu của mình, vị trí vinh quang gắn liền với truyền thống của người trí thưc Việt Nam. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Ðình Chiểu giữ vị trí tiên phong của thời đại, cả mở đầu lẫn dẫn đầu, cả về chiều sâu lẫn độ cao, độ chín. Ðó là bước phát triển vượt bậc nhưng vẫn nhất quán và liền mạch. 


2.2.Các nhân vật chính trong thơ văn yêu nước chống Pháp:


1.Nhân vật là người nông dân đánh Tây:


1.1.Vị trí của người dân trong văn chương:


 Trước đây vai trò của người dân chưa được đề cao trong văn chương. Trong giai đoạn trước Nguyễn Ðình Chiểu, người dân cũng giữ vai trò quan trọng nhưng chua quyết định như giai đoạn này. Nhân dân chỉ là lực lượng phục tùng. Số phận của họ được định đoạt dựa vào nhà nước phong kiến.


 Trong thơ văn yêu nước, vai trò người dân nổi bật hơn trước. Họ trở thành người dân mộ nghĩa, thành trang dẹp loạn. Trong số ấy có người là Dân ấp, dân lân, những người nông dân Nam bộ cùng khổ lúc bấy giờ. Họ trở thành nhân vật chính mà sử sách gọi là người nghĩa sĩ nông dân và Nguyễn Ðình Chiểu đã viết về họ như những người anh hùng của thời đại.


 1.2.Cái nhìn mới mẻ về người nông dân trong cuộc đấu tranh chống Pháp:


 Từ Chạy Tây đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, người dân Nam bộ đã đi những bước thật dài và cái nhìn của Ðồ Chiểu cũng tiến những bước thật dài. Ở Chạy Tây là nhân dân và ở Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là người nông dân.


 Nguyễn Ðình Chiểu đã khái quát về thời cuộc và đánh giá khái quát về cuộc đời nhân vật, kể về cuộc đời nhân vật là người nông dân nghèo khổ, chưa quen với việc cung kiếm binh đao bỗng chốc trở thành người nông dân đánh Tây. Họ yêu nước, tự ý thức được nghĩa vụ của mình nên chiến đấu rất dũng cảm kiên cường và lập nên những chiến công hiển hách:


Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;


chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.


 


Khá khen thay! Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo vòng ở lính diễu binh,


chẳng qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ.


Mười tám ban võ nghệ, nào nơi tập rèn, chín chục trận binh thư không chờ bày bố.


Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi;


trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.


Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xonh nhà dạy đạo kia;


gươm đeo dùng bằng lưỡi dao  phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ.


Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô của xông vào liều mình như chẳng có.


Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;


Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu chiếc, tàu đồng, súng nổ.


(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)


 


Ngòi bút Nguyễn Ðình Chiểu đã ca ngợi họ và khắc sâu vào tâm trí hình ảnh bất tử của nghĩa quân, nhắc lại quá trình chiến đấu gian khổ mà người nông dân Cần Giuộc đã trải qua. Ðó là con đường của dân tộc đã đi từ  bấy đến giờ, rất thực và cũng rất thơ. 


1.3.Tấm lòng của nhà thơ:


 Tình cảm của nhà thơ đối với người đã mất cũng như đối với người còn sống là rất nhân hậu và thành thực. Nhà thơ đau xót trước sự hy sinh của nghĩa quân và trút trách nhiệm ấy lên bọn vua quan bán nước. 


Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang sơn ba tỉnh luống thêm buồng.


Biết thuở nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái 


Tác giả thương người còn sống, thương mẹ già, vợ góa, con côi… tình cảm đó được diễn đạt bằng những câu thơ rất não nùng. 


Ðau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét ở trong lều.


Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ 


Nhà thơ còn nghĩa đến quê hương, đến đồng bào trong cơn lửa loạn và nhỏ lệ khóc thương 


Binh tướng nó hãy đóng ở sông Bến Nghé làm cho bốn phía mây đen.


Ông cha ta còn ở đất Ðồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ 


2.Nhân vật là người sĩ phu kháng Pháp: 


Là những lãnh tụ nghĩa binh chống Pháp như Trương Ðịnh, Phan Tòng… Nhà thơ đã ca ngợi, nhắc nhở, ghi công trạng của họ.


Ca ngợi Trương Ðịnh, Phan Tòng Vì nước, giúp đời, xem thường cái chết Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây. Hình ảnh của họ rất hiên ngang, đẹp đẽ, đi vào lịch sử và mang đậm nét bi hùng: 


Làm người trung người đáng bia son


Ðứng giữa càng khôn tiếng chẳng mòn


Cơm áo đền bồi ơn đất nước


Râu mày giữ vẹn phận tôi con

Tinh thần hai chữ phau sương tuyết


Khí phách nghìn thu rỡ núi non


(Ðiếu Phan Tòng) 


Có thể nói, qua nguyên mẫu một Trương Ðịnh, Phan Tòng, Nguyễn Ðình Chiểu đã dựng lên hình tượng người sĩ phu tiêu biểu cho cả một tầng lớp kẻ sĩ ưu tú nhất của thời đại lúc bấy giờ. 


3.Nhân vật  là người trí thức bất hợp tác với kẻ thù: 


Hình ảnh Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp là tiêu biểu cho người tri thức bất hợp tác với kẻ thù. Nhân Sư đã tự xông mắt cho mù để khỏi làm sĩ liêu, làm thái y cho giặc (Thà đui mà giữ đạo nhà). Ðây là hành động tự hủy để giữ thân, giữ đạo: 


Sự đời thà khuất đôi tròng thịt

Lòng đạo xin tròn một tấm gương. 


Nhưng Nhân Sư không hề bỏ rơi trách nhiệm của mình, luôn làm điều thiện để thực hiện thiên chức cao cả: Làm thuốc, dạy thuốc chữa bệnh cho dân, tập hợp và giác ngộ những người dân yêu nước, đợi thời cơ ra cứu nước: 


Hỡi bạn y lâm ai có hỏi


Ðò xưa bến cũ có ta đây 


Từ thái độ của Nhân Sư có thể thấy được thái độ của Nguyễn Ðình Chiểu: Yêu nuớc nhưng bất lực đến dày vò tâm hồn: 


Ðã cam chút phận dở dang


Trí quân hai chữ mơ màng năm canh 

Mặc dù bất lực nhưng tác phẩm vẫn thể hiện được niềm tin tưởng lạc quan vào tương lai dân tộc: 


Bao giờ nhật nguyệt dày gương sáng


Bốn bể câu ca hiệp một nhà


Và điều cảm động là tấm lòng của nhà thơ trước sau cũng đều thuộc về dân, về nước, thủy chung, son sắt: 


Mắt nhìn trong tiết thanh minh,


U Yên đất cũ cảnh tình trêu ngươi.


Trăm hoa nửa khóc nửa cười,


Như tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.


Cỏ cây đưa nhánh đón đường,


Như tuồng nếu hỏi: Ðông hoàng ở đâu?

Bên non đá cụm cuối đầu,


Như tuồng oan khuất lạy cầu cứu sinh.


Líu lo chim nói trên cành,


Như tuồng kẻ mách tình hình dân đau.


Ngày xuân mà cảnh chẳng xuân,


Mưa sầu, gió tủi biết chừng nào thanh! 


Có thể thấy ba nhân vật chính đã trở thành văn chương. Ba nhân vật nhưng cùng mộ tấm lòng, một thái độ. Tấm lòng đối với dân  và thái độ đối với kẻ thù.