The Soda Pop
Tác giả Chế Lan Viên

Tác giả Chế Lan Viên

Đánh giá: 7/10

Tác giả Chế Lan Viên

Chế Lan Viên còn ghi lại những niềm vui bình dị của đời sống kháng chiến ở Một bữa cơm thường trong bản nhỏ. Nhà thơ xúc động, viết về sự ngã xuống của các anh bộ đội ở nơi biên giới Việt Lào, bên bờ suối Vạn Mai, hay dưới một gốc cây sung chín đỏ mùa hè. Hình ảnh của những người dân công gánh bom gập người, đường dài đứt hơi mà vẫn luôn yêu đời cũng đã đi vào thơ Chế Lan Viên trong niềm tự hào trân trọng. Ông xót xa đau đớn trước cảnh quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh, máu đã hòa nước mắt, ngút trời đồng bốc lửa,và đồi sim lầy máu tươi. Chế Lan Viên những mong mọi người hãy luôn Nhớ lấy để trả thù cho quê hương, Tổ quốc. – Có thể nói, sống chân thành, sâu sắc với hiện thực đời sống kháng chiến chống Pháp của dân tộc, Chế Lan Viên đã đưa thơ ông thoát khỏi dĩ vãng buồn thương để trở về với cuộc đời hiện tại trong niềm tin yêu. Cuộc sống cách mạng và kháng chiến đã tạo điều kiện thuận lợi, chắp cánh cho tâm hồn thơ Chế Lan Viên vươn tới những đỉnh cao nghệ thuật và Bay theo đường dân tộc đang bay.


2.3.2 – Thơ Chế Lan Viên trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội


– Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Tổ quốc và dân tộc kiêu hãnh tiến bước trên một chặng đường lịch sử mới. Chế Lan Viên hòa mình với cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong niềm vui và hạnh phúc. Trong hoàn cảnh cuộc đời mới, hơn lúc nào hết, Chế Lan Viên càng nhận rõ hơn ý nghĩa lớn lao mà ông đã có được ở những tháng năm ông sống gắn bó với cuộc sống kháng chiến của dân tộc. Ông đã khẳng định :
Ôi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau vẫn đủ sức soi đường.
( Tiếng hát con tàu )


– Nỗi đau về cuộc sống quá khứ đã qua và niềm vui giữa cuộc sống hiện tại ngày một dâng đầy, tâm hồn thơ của Chế Lan Viên giờ đây như ngập tràn niềm vui trước cuộc đời rực rỡ phù sa. Nhà thơ quan niệm lấy cái vui của đời đánh bạt mọi thương đau. Càng gắn bó với cuộc đời, nhà thơ càng thấm thía hơn bao niềm hạnh phúc đang đến với mình. Nhà thơ đã cảm nhận hạnh phúc như đào ngon chín tới, hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên và mỗi bước đời ta ghép một vần thương. Niềm vui càng trở nên rạo rực và càng nhân lên khi Chế Lan Viên nhận thức về cuộc sống ngày càng sâu sắc hơn. Vì thế, những vần thơ của nhà thơ viết về cuộc đời mới rất đỗi đằm thắm ngọt ngào. Nhà thơ cảm nhận :
Cái sống ngọt ngào trong từng sợi cỏ
Một cành hoa cũng muốn giục môi hôn.
( Tàu đến )


– Sống giữa niềm vui của cuộc đời mới, Chế Lan Viên đã có quan niệm mới mẻ về quê hương. Quê hương không chỉ là nơi chôn nhau, cắt rốn, mà quê hương còn là nơi ta gắn bó và biết sống hết mình vì nó. Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, nhà thơ viết :


 


Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn .
hay là :
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.

 


– Nghĩ về cuộc sống hiện tại trong sự so sánh với quá khứ đau thương của dân tộc, Chế Lan Viên càng tự hào khi hiểu rằng cuộc đời ngày thêm rực rỡ phù sa, ngày một thêm ý nghĩa, và ông thốt lên trong niềm hạnh phúc :
Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn
và:
Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút bây giờ .
( Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? )


– Chế Lan Viên đã đi từ chân trời của một người, đến chân trời của mọi người. Cuộc đời mới là nguồn sức mạnh tinh thần giúp nhà thơ Ði thực tế, gặp lại nhân dân và hiểu cuộc sống bao la rung cả những lòng đang riêng lẻ , nhà thơ khát vọng:


Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc
Nơi bốn mùa đã hóa thành thu
Nơi đáy bể những rừng san hô vờ thức ngủ
Những rừng rong tóc xõa lược trăng cài
Nơi những ây trắng xóa cá bay đi …
( Cành phong lan bể )


Cuộc sống mới chứa chan Aùnh sáng và phù sa đã thực sự giúp Chế Lan Viên lấn từng nỗi đau như mùa chiêm lấn vành đai trắng và nay trở về ta lấy lại vàng ta. Khi đã có hướng rồi, nhà thơ không ngần ngại Ði ra với sông, đi ra với trời, đi ra với đời để cảm nhận được :


Tôi yêu quá cuộc đời như con đẻ
Như đêm xuân người vợ trẻ yêu chồng
Tôi nối với bạn bè như với bể
Cả lòng tôi là một giải sông Hồng.
( Chim lượn trăm vòng )


– Càng đến với cuộc sống , những vần thơ của Chế Lan Viên càng chan chứa niềm tin yêu cuộc sống và có quan niệm đúng đắn về con người công dân trong cuộc đời mới. Trước đây nhà thơ trăn trở về cái Ta, Cõi ta, thì giờ đây nhà thơ đã nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình trước cuộc đời mới :


Ta là ai ? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
Ta vì ai ? Khẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh.
( Hai câu hỏi )


Chế Lan Viên có khát vọng làm một cánh chim lượn trăm vòng trên Tổ quốc mênh mông để được trở lại giữa rừng sâu Việt Bắc, đến trước đồi Ðiện Biên rực lửa, đến cả những vùng xưa chẳng đến, về giữa miền Nam trời của mẹ, ra bể cá nồng hơi gió bể, nối với bạn bè như với bể, được ngắm nhìn ngàn núi trăm sông diễm lệ và mở rộng tâm hồn mình đón nhận bao niềm vui và hạnh phúc giữa cuộc đời. Với khát vọng đó, nhà thơ lòng tự dặn lòng :


Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ.
( Qua Hạ Long )


– Cuộc sống mới được nhà thơ cảm nhận với niềm tin yêu chân thành và đó chính là nguồn thi hứng lớn lao, mạnh mẽ, luôn trỗi dậy trong tâm hồn nhà thơ. Những đổi thay kì diệu của cuộc sống đã tạo tâm hồn thơ Chế Lan Viên càng thêm dạt dào cảm xúc. Nhiều bài thơ của Chế Lan Viên trong thời kì này thể hiện sự nhận thức sâu sắc về vẻ đẹp của Tổ quốc và dân tộc, về vai trò của Ðảng và Bác Hồ, tiêu biểu là : Tiếng hát con tàu, Cành phong lan bể, Tàu đến, Tàu đi, Kết nạp Ðảng trên quê mẹ, Người đi tìm hình của nước
Ðược tắm mình giữa đời sống của nhân dân, được ánh sáng của Ðảng soi rọi và phù sa của cuộc đời vun đắp, Chế Lan Viên đã vượt khỏi nỗi đau riêng đến với niềm vui chung của dân tộc bằng tấm lòng chân thành và sự tài hoa nghệ thuật để dâng hiến cho đời nhiều vần thơ hay.


2..3.3 – Thơ Chế Lan Viên trong những năm kháng chiến chống Mĩ


– Trong những năm kháng chiến chống Mĩ , Tổ quốc tươi đẹp và dân tộc anh hùng là cảm hứng chủ đạo của Chế Lan Viên, nhà thơ những muốn :


Khi ta muốn thơ ta thành hầm chông giết giặc
Thành một nhành hoa mát mắt cho đời

Với Chế Lan Viên, chưa bao giờ Tổ quốc lại cao đẹp như những tháng năm kháng chiến chống Mĩ . Nhà thơ không ngần ngại khẳng định đó là những ngày đẹp hơn tất cả, ngày vĩ đại. Trong hoàn cảnh đó, vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của dân tộc Việt Nam càng ngời sáng hơn. Nhà thơ tự hào, kiêu hãnh viết :


Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng
Ta mọc dậy trước mắt nghìn nhân loại
Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng.
( Thời sự hè 72, bình luận )


– Hiện thực đời sống thời kì kháng chiến chống Mĩ đã tỏa nắng cho thơ Chế Lan Viên để nhà thơ có thêm nhiều vần thơ tràn đầy sức sống và sức hấp dẫn. Tâm hồn thơ Chế Lan Viên rộng mở hướng tới khắp mọi miền của Tổ quốc để nhạy bén thu nhận chất thơ của đời sống và hòa nhịp sống của mình với nhịp sống của dân tộc. Nhà thơ viết về những cuộc tiễn đưa ra trận với kỉ niệm của cái hôn cân vạn ngày lửa đạnvà trầm tích trong bể sâu của nhớ, là chút thương nhớ giắt bên mình cùng súng đạn.


– Hình ảnh của cuộc sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng đi vào thơ Chế Lan Viên ngày càng thêm đậm đà, sâu sắc. Nhà thơ tự hào viết những tên làng, tên núi, tên đường, tên sông gắn liền với những chiến công hiển hách như: Trường Sơn, đường Chín, ngã ba Ðồng Lộc, Cồn Cỏ, Quảng Bình, Vĩnh Linh. Nhà thơ cảm nhận cuộc sống hôm nay mỗi tấc núi sông thành thơ và hóa sử và các thế hệ nhìn chỗ ta đứng lúc này như những hải đăng. Tất cả những điều đó chính là chất vàng, chất ngọc của cuộc đời đã góp phần tạo cho Chế Lan Viên có được nhiều tứ thơ hay.


– Trước hiện thực đời sống đó, nhà thơ nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp của Tổ quốc và sự gắn bó rất đỗi đằm thắm, thiết tha với Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha ta như vợ như chồng của con người Việt Nam :


Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu Kiều,
bờ tre mái rạ
Mái đình cong cong như bàn tay em gái vẫy giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả,
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo
( Thời sự hè 72, bình luận )

– Hình ảnh của những bà mẹ, người chị, người vợ, những chàng áo vải, những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi , đã đi vào thơ Chế Lan Viên với vẻ đẹp chân chất, bình dị và thật đáng tự hào. Cũng chính trong những năm tháng nước sôi lửa bỏng này, nhà thơ cảm nhận trọn vẹn hơn về vai trò to lớn của nhân dân:
Nhân dân không có một thanh gươm vung một cái đến trời mây
Nhưng họ gánh lịch sử đến nghìn lần lớn hơn đời họ.
( Thơ bổ sung )


– Càng yêu Tổ quốc, càng nhận thức sâu sắc bản chất của kẻ thù và những nỗi đau thương dân tộc phải trải qua, những khát khao về cuộc sống yên bình hạnh phúc, Chế Lan Viên đã sáng tạo nên những nhành hoa mát mắt cho đời. Ðó là những hình ảnh bắt lòng ta nhớ mãi ở các bài thơ : Sông Cầu, Hoa ngày thường, Ði trong chùa Hương, Mây của em, Lau mùa thu, Kỉ niệm có gì Cuộc sống không chỉ đòi hỏi Chế Lan Viên suy ngẫm, triết lí, mà còn giúp cho nhà thơ có được sự cảm xúc sâu lắng trước vẻ đẹp giản dị của đời sống hàng ngày qua những vần thơ viết về các loài hoa, về tình yêu đằm thắm thiết tha và sự ngọt ngào của cuộc sống hạnh phúc gia đình qua các bài : Hoa thảo hoa vàng, Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể, Chia, Cảm ơn, Con đi sơ tán, Ðặt tên con,…
Với tình cảm nồng nàn, trí tuệ sắc sảo và sự gắn bó sâu sắc với hiên thực đời sống chiến tranh, Chế Lan Viên đã sáng tạo được nhiều vần thơ xúc động đậm đà chất trữ tình, hùng ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.


 


2.3.4 – Thơ Chế Lan Viên từ sau 1975 đến khi qua đời


– Những năm cuối đời, khi hoàn cảnh sống gặp không ít những khó khăn, nhưng Chế Lan Viên vẫn không ngừng sáng tạo. Mạch thơ về cuộc sống chống Mĩ vẫn tiếp tục vận động và phát triển với tầm nhận thức cao hơn, tầm nhìn xa rộng hơn. Mặt khác, cũng trong thời gian này, Chế Lan Viên trăn trở và suy ngẫm nhiều về cuộc sống đời thường, về bản thân để khẳng định chiều sâu thẳm trong tâm hồn mình, tự tìm mình. – Ðặc biệt, nhiều bài thơ trong Di cảo, nhất là ở những bài thơ viết vào khoảng thời gian 1987, 1988, người đọc nhận thấy sự giãi bày, tự vấn chân tình của Chế Lan Viên. Tuy chỉ diễn ra trong khoảng thời gian ngắn cuối đời nhưng đó là sự tiếp tục của một nhà thơ luôn ý thức được vai trò quan trọng của nghệ thuật đối với cuộc sống và đó là quy luật muôn đời mà cuộc đời của Chế Lan Viên cũng không nằm ngoài quy luật đó. – Cũng vì lẽ đó, đã bao nhiêu năm anh hát giọng cao, giờ đây anh hát giọng trầm. Ðây không phải là sự đổi giọng đến bất ngờ như cảm nghĩ của một số người khi đến với Di cảo thơ. Sự tự nhận thức, nghiền ngẫm về bản thân đã giúp cho Chế Lan Viên không rơi vào sự ảo tưởng, ông quan niệm mỗi câu thơ đều phải vượt lên mình và ông sống với sức mạnh của tấm lòng nhân hậu, sự yêu đời, vì thế, tâm hồn nhà thơ càng trở nên thanh cao hơn. trong cuộc sống hiện tại. Thật xúc động khi ông cảm nhận:




Sau anh còn mênh mông nhân loại
Ðừng nghĩ mình là người đi cuối
Phải để lại dấu chân, nhành cây, viên sỏi
Cho người theo sau không cô đơn



( Sau anh ) – Chế Lan Viên nghĩ nhiều về cái chết để đừng tuyệt vọng, để sống những ngày còn lại có ích cho mai sau. Ðó cũng là sự biểu hiện tâm thế và lẽ sống cao quý của nhà thơ khi viết Từ thế chi ca để lại cho người đời.
Có thể nói, trên từng chặng đường sáng tác, ngay cả khi nằm trên giường bệnh Chế Lan Viên vẫn luôn sống hết mình cho đời và cho thơ. Ông tìm tòi, sáng tạo với khát vọng để lại cho người đọc những vần thơ mới mẻ, đặc sắc, và ông đã làm được điều đó.


3.Chế Lan Viên với văn xuôi


 Phần này sinh viên đọc tài liệu và lưu ý các điểm sau :



– Chế Lan Viên viết tùy bút và bút kí ở những thời điểm quan trọng trong đời sống của dân tộc.



– Tùy bút, bút kí của Chế Lan Viên thường đào sâu, mở rộng những vấn đề trong đời sống. Các vấn đề được đặt trong mối liên hệ nhiều mặt để từ đó phát hiện được nhiều điều mới mẻ của nó.



– Tùy bút của Chế Lan Viên rất giàu chất thơ.



– Chế Lan Viên phê bình thơ rất tinh tế và sắc bén. Cách phê bình thơ của Chế Lan Viên khác với Hoài Thanh, Xuân Diệu. Ông đi sâu vào tính dân tộc, tính thời đại của thơ, cách sáng tạo thơ, vị trí của thơ trong đời sống, ý nghĩa lớn lao của việc tìm tòi đổi mới trong sáng tạo thơ 4 Phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên


 4.1 – Giàu chất trí tuệ, có sự thống giữa trí tuệ và cảm xúc


– Trong suốt quá trình sáng tạo thơ, Chế Lan Viên luôn có khát vọng phát giác sự việc ở cái bề chưa thấy, khám phá sự vật, hiện tượng ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa để từ đó đem lại nhiều vần thơ mới lạ, đặc sắc, gây cho người đọc sự bất ngờ, thú vị.



– Với trí tưởng tượng phong phú, sức liên tưởng kì diệu, cách nhìn sự vật trong sự đối lập và luôn tranh luận, đối thoại, Chế Lan Viên chiếm lĩnh được thực tại cuộc sống để từ đó có cách suy ngẫm, triết lí sâu sắc, cũng như sự khái quát chính xác về những vấn đề trong đời sống.



– Thơ Chế Lan Viên có cảm xúc đằm thắm thiết tha. Biết bao vần thơ của ông trở thành nhành hoa mát mắt cho đời. Thơ ông có khi mềm mại như lời ru của mẹ, như câu hò, điệu hát có sức ngân xa, thấm sâu trong tình cảm người đọc; có khi mang nặng nghĩa tình và những nỗi trăn trở, thao thức; có khi chất chứa sự suy tưởng triết lí về một vấn đề nào đấy trong cuộc sống. Có thể nói, cái tôi trữ tình rất chủ động và năng động hòa nhập với mọi đối tượng để cảm xúc, suy luận, tranh luận, đối thoại. Vì lẽ đó, đến với thơ Chế Lan Viên, người đọc nhận thấy sự kết hợp hài hòa giữa trí tuệ sắc sảo và cảm xúc nồng cháy mãnh liệt. Sức sống và sức hấp dẫn của thơ Chế Lan Viên phần nào được bắt nguồn từ đó.



– Tuy nhiên, trong thơ Chế Lan Viên có khi cảm xúc và trí tuệ thiếu kết hợp hài hòa, khi đó thơ ông rơi vào sự cầu kì, khó hiểu, xa lạ với tình cảm, nhận thức của người đọc.



4.2 – Thể hiện sự vật, hiện tượng ở các mặt đối lập


– Chế Lan Viên luôn nhìn nhận sự vật từ nhiều mối liên hệ qua lại lẫn nhau, trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng, để từ đó nắm bắt và khái quát được bản chất của nó. Ðặc biệt, ông có ý thức tìm kiếm, khám phá và làm nổi bật sự tương quan đối lập, cũng như những mối liên hệ giữa các mặt đối lập của hiện thực. Nguyễn Văn Hạnh khẳng định: Hình thức cơ bản phổ biến trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên là sự đối lập. Nguyễn Xuân Nam quan niệm :Nét nổi bật của tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên là sự đối lập. Còn Nguyễn Văn Long cho rằng: Tư duy thơ của Chế Lan Viên thường xem xét sự vật trong những mối quan hệ đối lập.



– Có thể nói, sự đối lập của sự vật và hiện tượng được Chế Lan Viên cảm nhận từ cái nhìn biện chứng. Chính tình yêu, sự gắn bó với cuộc sống, sự am hiểu sâu rộng nhiều phương diện của đời sống tự nhiên và xã hội, cũng như sự tài hoa thông minh và sắc sảo đã giúp Chế Lan Viên có được cách nhìn, cách nghĩ, cách tìm tòi, khai thác những vấn đề của cuộc sống trong sự đối lập.



– Ngay từ thuở viết Ðiêu tàn, nhà thơ đã thể hiện được cảnh thái bình trong Chiêm Quốc với cảnh đền xưa đổ nát, tháp gầy mòn mong đợi, tượng chàm lở lói rỉ rên than , để qua đó gửi gắm nỗi đau về sự hủy diệt, nỗi buồn thương cho số phận của dân tộc trước cảnh đời hiện tại.



– Trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chế Lan Viên thường nói đến sự đối lập: giữa cái nhỏ bé, nhỏ hẹp, riêng tây với cái rộng lớn mênh mông; giữa bóng đêm tăm tối, đêm tàn với bình minh, chói lòa ánh sáng, chói lòa hào quang hôm nay; giữa lạnh lẽo với ấm áp, giữa cái đói nghèo khổ đau với hạnh phúc; giữa giọt lệ với lời ca, tiếng hát, nụ cười, nhành vui; giữa cay đắng, chua cay, tủi cực với ngọt ngào, đời hồng; giữa cái đá sỏi, cây cằn, ruộng đói mùa với phù sa, hoa trái mỡ màu. Thông qua đó, nhà thơ nhằm ngợi ca, khẳng định những đổi thay lớn lao và ý nghĩa của dân tộc trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội .



– Những năm chống Mĩ cứu nước, Chế Lan Viên cảm nhận những vấn đề của cuộc sống trong sự đối lập : giữa cảnh hòa bình với chiến tranh; giữa đoàn viên, hội ngộ với chia li, từ tạ; giữa bể căm thù với bể yêu thương, giữa cánh đồng vàng óng ả, cửa sổ sơn hồng với pháp trường và những bãi tha ma; giữa văn minh với dã man; giữa tồn tại với hủy diệt; giữa sống với chết; giữa cái bình thường với phi thường; giữa trong với đục; giữa nhớ với quên. Bằng cách cảm nhận đó, nhà thơ lí giải và thể hiện được những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh, cũng như vạch trần bản chất hung bạo và xảo quyệt của kẻ thù xâm lược.



– Vào những năm cuối đời, khi thời gian còn lại của đời mình cạn dần, khi căn bệnh hiểm nghèo đang tàn phá sức lực, và trong cảnh Viên Tĩnh Viên, Chế Lan Viên vẫn luôn trăn trở, thao thức về những gì đang diễn ra trong đời sống. Ông nhìn sự vật trong sự đối lập giữa phía bên này với phía bên kia; giữa quá khứ với hiện tại; giữa hiện tại với mai sau; giữa héo tàn với sinh sôi; giữa cảnh hoa trái nghèo xuân sắc bỏ quên với cuộc sống của quyền lực, danh vọng; giữa mặt trời chói lòa với ngọn đèn con con,… Từ cách nhìn, cách khám phá đó nhà thơ khẳng định lẽ sống cao đẹp giữa cuộc đời và biết sống hết mình cho cuộc sống.