
NGỌN LỬA TÌNH NGƯỜI TRONG "VỢ NHẶT" CỦA KIM LÂN.
Đánh giá: 7/10
NGỌN LỬA TÌNH NGƯỜI TRONG "VỢ NHẶT" CỦA KIM LÂN.
Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã “nên người”, thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người thân, ý thức về sự “nên người” khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về tâm tính lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Anh xăm xắn chạy ra giữa sân, muốn làm một việc gì để góp phần tu sửa lại căn nhà. Người đàn bà – vợ nhặt của Tràng cũng đã đổi thay, khác hẳn. Rõ là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gập ở ngoài tỉnh. Rõ là người vợ biết chăm sóc chồng lam làm vun vén cho cái tổ ấm vừa xây dựng. Nhìn ở đâu cũng thấy có bàn tay chị. Nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, áo quần giặt giũ, ang nước đầy, cái bếp ấm lửa. Nhà văn không miêu tả chi tiết mà chỉ phác qua một nét nhẹ nhàng bằng cảm nhận của Tràng – người chồng – hình ảnh người vợ vẫn hiện lên thật đáng yêu. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai, nhẹ nhàng bảo nàng dâu: “Anh ấy dậy rồi đây. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn”. Vợ Tràng đáp: “Vâng”, rồi lẳng lặng đi vào trong bếp. Sự việc diễn ra thật đơn sơ mà thấm thìa làm sao! Mẹ chồng nàng dâu như đã sống với nhau, gắn bó thương yêu, kính trọng nhau, thông thuộc việc nhà như đã hàng chục năm rồi. Cái nền nếp, gia phong như đã được đắp xây bền vững từ lâu lắm rồi. Người đàn bà ấy, đối với Tràng không còn là của “nhặt” được nữa, mà thực sự đã là “vợ” rồi, là “nàng dâu” của mẹ anh rồi. Như vậy, chị ta cũng đã “nên người”, xứng đáng “con người”. Còn cụ Tứ – người mẹ nghèo khổ, chậm chạp, già yếu – cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. Cái mặt bủng beo u ám rạng rỡ hẳn lên. Bà xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, sai bảo, dạy dỗ con đâu, nhắc nhở, động viên con trai. Tâm hồn người mẹ chan hoà một nguồn sáng mới – nguồn sáng của niềm tin yêu, hi vọng.
Ánh sáng của niềm tin yêu, hi vọng từ trong người mẹ, toả sang đôi vợ chồng mới. Vì thế bữa cơm thảm hại của ngày đói – có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo loãng – cả nhà vẫn vui vẻ ăn rất ngon lành. Bà lão bàn chuyện ngăn bếp nuôi gà. “Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Một đôi gà thoáng trong tích tắc đã hoá “đàn gà”. Có một ông bụt, một bà tiên nào đã nhập vào lời bà cụ, hay chính bà cụ đang hoá thành tiên, bụt để đem đũa thần biến những khổ đau, tăm tối của cuộc đời mình, cuộc đời dâu, con thành niềm vui, ánh sáng? Nồi cám đắng chát nối sau hai lưng cháo loãng trong tay bà biến thành “cái này hay lắm cơ…”, thành “chè đây, chè khoán đây”. Hình ảnh bà cụ “lật đật chạy xuống bếp”, rồi “lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút”, cùng cái cử chỉ “cầm môi khuấy khuây” múc từng bát cám và câu nói: “ngon đáo để… ngon đáo để…” được nhà văn đặc tả vừa như chân thực vừa như lãng mạn như trong một câu chuyện cổ tích vậy, cổ tích trong vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, song vẫn hiện đại, chân thực trong những từ ngữ đời thường chắt lọc, nhất là những từ láy đặc sắc: lật đật, lễ mễ, nghi ngút, khuấy khuấy, ngon đáo để. Càng về cuối, câu chuyện càng giản dị, song vẫn bất ngờ, hấp dẫn, và thật cảm động. Ngọn lửa tình người, ngọn lửa sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, ấm no sự gắng gượng vui sống, niềm hy vọng ngày mai cuộc sống tốt đẹp hơn… cứ nóng dần, lan toả trong từng chi liết truyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ chuyện gia đình, chuyện nồi cháo cám đắng chát mà vẫn “ngon đáo để”, ba con người khôn khổ ấy cố quên đi những đắng chát trong túp lều nhỏ hẹp để lắng nghe tiếng vọng ở ngoài đời rộng lớn. Đó là tiếng trống thúc thuế, còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho người nghèo đói… Từ lời kể của vợ, Tràng như bừng tỉnh. Anh nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sập, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ của Việt Minh dân đoàn người đi phá kho thóc chia cho người đói. Khi vợ và mẹ đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ màng nghĩ tới “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Câu chuyện về những người nghèo đi phá kho thóc Nhật chia cho dân ở nơi này, nơi kia, hình ảnh lá cờ đỏ hai lần hiện lên trong tâm trí Tràng, phải chăng là một luồng sáng mới? Luồng khởi quang cách mạng đó, tuy ba con người nghèo khổ chưa nhận thức được rõ ràng song vẫn lung linh, chấp chới một dự cảm ấm lòng. Nó nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống. Nó thắp sáng thêm ngọn lửa tình người, giục giã con người tiếp tục gắng gỏi vươn lên, xé tan màn đêm vây bủa để đi tới một buổi mai của khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng “lá cờ đỏ bay phấp phới” như một vĩ thanh buông ngân từ tác phẩm một âm hưởng lạc quan. Cuộc đời chưa diễn ra,song ánh áng hồng một đời mới như đang ở ngay trước mặt, thắp trong người đọc một niềm vui để càng thêm yêu và tin ở con người, ở tình người.
Đặt trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, có người tiếc cho Vợ nhặt không chào đời cùng lúc với Tắt đèn, Chí Phèo, Bỉ vỏ, hoặc đúng dịp Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chúng ta được biét, nhà vãn Kim Lân khởi thảo tác phẩm năm 1940, chắc đã thai nghén những nhân vật, những tình hướng chi tiếi truyện sớm hơn nữa. Trải qua hai cái mốc lớn của dân tộc: cuộc Cách mạng táng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, qua sự trải nghiệm cuộc đời với độ lùi thời gian và độ chín của tư duy sáng tạo, nhà văn mới hoàn thiện và công bố tác phẩm. Do đó tác phẩm có dáng hình giống những áng văn hiện thực trước năm 1945, song âm hưởng khác hẳn. Nó không tăm tối, ngột ngạt đến bế tắc. Điều đặc sắc nhất ở ngòi bút Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh khắc của mỗi đời người, của cả dân tộc mà cuộc sống đẩy con người vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, ẩn náu sâu kín nhất chứa đựng sức sống cả một đời người, một đời nhân loại. Tác phẩm Vợ nhặt vì thế, không chỉ có ý nghĩa của câu chuyện duyên kiếp mà còn thấm thía một lẽ sống ở đời. Trong những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình người, ngọn lửa khát khao hạnh phúc. Âm hưởng ngân nga trong từng dòng, từng đoạn là hiện thực và lãng mạn đan xen, tiếng khóc và tiếng cười đan xen, bóng tối và ánh sáng giành giật, để cuối cùng mở ra một ngày sáng lóa, có ánh hồng của mặt trời, sắc đỏ của lá cờ Cách mạng. Cảm hứng nhân văn – tinh thương và niềm tin ở con người, trước hết với nhân dân lao động – của Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vương lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và điều đặc sắc nữa ở ngòi bút Kim Lân là giọng kể, những tình huống truyện trớ trêu mà giản dị, thô mộc mà hấp dẫn, là những từ ngữ dân gian mà giàu lính nghệ thuật, là những chi tiết hiện đại mà như trong cổ tích. Biết đâu, các nhà từ điển ngày mai sẽ đưa từ mới “Vợ nhặt” – sáng tạo riêng của Kim Lân – vào kho từ vựng văn chương hiện thực và nhân đạo Việt Nam. Và … biết đâu, sau này con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ nhặt như đọc một truyện cổ tích – cổ tích về duyên kiếp những con người đói khổ có nồi cháo cám ăn mừng ngày nên vợ nên chồng, có bà mẹ nghèo hiền hậu như một bà tiên, có lá cờ đỏ báo hiệu giấc mơ sắp thành hiện thực.
12
Ánh sáng của niềm tin yêu, hi vọng từ trong người mẹ, toả sang đôi vợ chồng mới. Vì thế bữa cơm thảm hại của ngày đói – có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muối ăn với cháo loãng – cả nhà vẫn vui vẻ ăn rất ngon lành. Bà lão bàn chuyện ngăn bếp nuôi gà. “Khi nào có tiền, ta mua lấy đôi gà. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”. Một đôi gà thoáng trong tích tắc đã hoá “đàn gà”. Có một ông bụt, một bà tiên nào đã nhập vào lời bà cụ, hay chính bà cụ đang hoá thành tiên, bụt để đem đũa thần biến những khổ đau, tăm tối của cuộc đời mình, cuộc đời dâu, con thành niềm vui, ánh sáng? Nồi cám đắng chát nối sau hai lưng cháo loãng trong tay bà biến thành “cái này hay lắm cơ…”, thành “chè đây, chè khoán đây”. Hình ảnh bà cụ “lật đật chạy xuống bếp”, rồi “lễ mễ bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút”, cùng cái cử chỉ “cầm môi khuấy khuây” múc từng bát cám và câu nói: “ngon đáo để… ngon đáo để…” được nhà văn đặc tả vừa như chân thực vừa như lãng mạn như trong một câu chuyện cổ tích vậy, cổ tích trong vẻ đẹp của hình tượng nhân vật, song vẫn hiện đại, chân thực trong những từ ngữ đời thường chắt lọc, nhất là những từ láy đặc sắc: lật đật, lễ mễ, nghi ngút, khuấy khuấy, ngon đáo để. Càng về cuối, câu chuyện càng giản dị, song vẫn bất ngờ, hấp dẫn, và thật cảm động. Ngọn lửa tình người, ngọn lửa sự sống, niềm khao khát hạnh phúc, ấm no sự gắng gượng vui sống, niềm hy vọng ngày mai cuộc sống tốt đẹp hơn… cứ nóng dần, lan toả trong từng chi liết truyện, từng câu, từng chữ. Cuối cùng, từ chuyện gia đình, chuyện nồi cháo cám đắng chát mà vẫn “ngon đáo để”, ba con người khôn khổ ấy cố quên đi những đắng chát trong túp lều nhỏ hẹp để lắng nghe tiếng vọng ở ngoài đời rộng lớn. Đó là tiếng trống thúc thuế, còn phá cả kho thóc Nhật, chia cho người nghèo đói… Từ lời kể của vợ, Tràng như bừng tỉnh. Anh nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sập, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm, lá cờ của Việt Minh dân đoàn người đi phá kho thóc chia cho người đói. Khi vợ và mẹ đứng dậy, Tràng vẫn còn mơ màng nghĩ tới “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Câu chuyện về những người nghèo đi phá kho thóc Nhật chia cho dân ở nơi này, nơi kia, hình ảnh lá cờ đỏ hai lần hiện lên trong tâm trí Tràng, phải chăng là một luồng sáng mới? Luồng khởi quang cách mạng đó, tuy ba con người nghèo khổ chưa nhận thức được rõ ràng song vẫn lung linh, chấp chới một dự cảm ấm lòng. Nó nuôi dưỡng niềm tin cuộc sống. Nó thắp sáng thêm ngọn lửa tình người, giục giã con người tiếp tục gắng gỏi vươn lên, xé tan màn đêm vây bủa để đi tới một buổi mai của khát vọng làm người, khát vọng hạnh phúc. Chi tiết cuối cùng “lá cờ đỏ bay phấp phới” như một vĩ thanh buông ngân từ tác phẩm một âm hưởng lạc quan. Cuộc đời chưa diễn ra,song ánh áng hồng một đời mới như đang ở ngay trước mặt, thắp trong người đọc một niềm vui để càng thêm yêu và tin ở con người, ở tình người.
Đặt trong tiến trình văn học hiện đại Việt Nam, có người tiếc cho Vợ nhặt không chào đời cùng lúc với Tắt đèn, Chí Phèo, Bỉ vỏ, hoặc đúng dịp Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chúng ta được biét, nhà vãn Kim Lân khởi thảo tác phẩm năm 1940, chắc đã thai nghén những nhân vật, những tình hướng chi tiếi truyện sớm hơn nữa. Trải qua hai cái mốc lớn của dân tộc: cuộc Cách mạng táng Tám năm 1945 và kháng chiến chống Pháp, qua sự trải nghiệm cuộc đời với độ lùi thời gian và độ chín của tư duy sáng tạo, nhà văn mới hoàn thiện và công bố tác phẩm. Do đó tác phẩm có dáng hình giống những áng văn hiện thực trước năm 1945, song âm hưởng khác hẳn. Nó không tăm tối, ngột ngạt đến bế tắc. Điều đặc sắc nhất ở ngòi bút Kim Lân là ông đã chọn được một khoảnh khắc của mỗi đời người, của cả dân tộc mà cuộc sống đẩy con người vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, ẩn náu sâu kín nhất chứa đựng sức sống cả một đời người, một đời nhân loại. Tác phẩm Vợ nhặt vì thế, không chỉ có ý nghĩa của câu chuyện duyên kiếp mà còn thấm thía một lẽ sống ở đời. Trong những lúc cuộc đời tăm tối nhất, con người vẫn cố gắng thắp sáng ngọn lửa tình người, ngọn lửa khát khao hạnh phúc. Âm hưởng ngân nga trong từng dòng, từng đoạn là hiện thực và lãng mạn đan xen, tiếng khóc và tiếng cười đan xen, bóng tối và ánh sáng giành giật, để cuối cùng mở ra một ngày sáng lóa, có ánh hồng của mặt trời, sắc đỏ của lá cờ Cách mạng. Cảm hứng nhân văn – tinh thương và niềm tin ở con người, trước hết với nhân dân lao động – của Vợ nhặt dường như đã mang nét mới của thời đại, vương lên trên chủ nghĩa nhân văn trong dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và điều đặc sắc nữa ở ngòi bút Kim Lân là giọng kể, những tình huống truyện trớ trêu mà giản dị, thô mộc mà hấp dẫn, là những từ ngữ dân gian mà giàu lính nghệ thuật, là những chi tiết hiện đại mà như trong cổ tích. Biết đâu, các nhà từ điển ngày mai sẽ đưa từ mới “Vợ nhặt” – sáng tạo riêng của Kim Lân – vào kho từ vựng văn chương hiện thực và nhân đạo Việt Nam. Và … biết đâu, sau này con cháu chúng ta sẽ đọc Vợ nhặt như đọc một truyện cổ tích – cổ tích về duyên kiếp những con người đói khổ có nồi cháo cám ăn mừng ngày nên vợ nên chồng, có bà mẹ nghèo hiền hậu như một bà tiên, có lá cờ đỏ báo hiệu giấc mơ sắp thành hiện thực.