Pair of Vintage Old School Fru
Khái quát văn học yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1900)

Khái quát văn học yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1900)

Đánh giá: 7/10

Khái quát văn học yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 (1858-1900)

Trải qua hàng chục thế kỷ chống ngoại xâm, từ buổi đầu dựng nước cho đến khi có văn học thành văn, nhân dân ta thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt của mình.


 


Ðến nửa cuối thế kỷ XIX, khi Pháp sang, truyền thống yêu nước vốn là truyền thống lâu đời của dân tộc lại có dịp bùng lên một cách mạnh mẽ. Văn học chống Pháp ra đời đã kế thừa một cách tốt đẹp truyền thống yêu nước trong lịch sử và  và có những bước phát triển phù hợp với hoàn cảnh mới của lịch sử.


 


Văn thơ yêu nước đã vạch trần những luận điệu hèn nhát, bỉ ổi của triều đình, bọn vua quan vô trách nhiệm, bè lũ Việt gian bán nước thành những bản án đanh thép hoặc những trang châm biếm sắc sảo.


 


–         Hịch đánh Tây của Lãnh Cồ


–         Hà thành thất thủ ca.


–         Hà thành chính khí ca.


–         Vè thất thủ kinh đô.


–         Biểu trần tình của Hoàng Diệu


–         Phú kể tội Pháp đánh Bắc kỳ lần I của Phạm Văn Nghị.


–         Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây của Nguyễn Ðình Chiểu…


–          


Mặt khác , nó còn phản ánh tâm lý đau xót của nhân dân trước cảnh nước mất, nhà tan (bài Cảm tác của Phan Văn Trị, Vè thất thủ kinh đô của nhân dân Huế, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Ðình Chiểu…)


 


Khuynh hướng này đã đem đến cho văn học một luồng sinh khí mới, một sức sống mới. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng này là Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Thông, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Xuân Ôn…


 





2. Khuynh hướng hiện thực trào phúng:  

 






 


Có quan hệ chặt chẽ với khuynh hướng yêu nước chống Pháp. Các nhà văn này, ban đầu sáng tác văn học yêu nước nhưng về sau khi phong trào kháng pháp thất bại, Pháp chiếm toàn bộ đất nước ta, xã hội bộc lộ những chướng tai gai mắt nên các nhà văn này đã dùng ngòi bút của mình để phơi bày những mặt trái của xã hội bằng khiếu hài hước nhạy bén của mình. Họ đã lấy việc tố cáo làm phưông tiện để gây căm thù nhằm mục đích kêu gọi chiến đấu.


 


Khuynh hướng này phát triển thành một khuynh hướng độc lập, tuy kkông đông đúc như khuynh hướng yêu nước chống Pháp nhưng cũng khá đa dạng, phát triển khắp trong Nam ngoài Bắc. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hứơng này là Nguyễn khuyến, Trần Tế Xương, Học Lạc, Nguyễn Thiện kế, Tú Quỳ, Kép trà, Trần Tích Phiên,, Nguyễn Hiển Dĩnh, Học Quế… Bên cạnh đó còn có những tác giả dân gian, của loại truyện Ba giai Tú Xuất, chất tố cáo càng mạnh mẽ.


 


Các bài thơ tiêu biểu :


– Ông làng hát bội, Chó chết trôi của Học lạc.


– Vịnh Lê Hoan, Vịnh tri phủ Quảng Oai của Nguyễn Thiện kế.            –


– Ông Phỗng đá, Thầy đồ ve gái góa của Nguyễn Khuyến.


– Ðất Vị hoàng, Mùng hai tết viếng cô Ký của Trần Tế Xương…


Khuynh hướng này có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.


 





3. Khuynh hướng thoát ly hưởng lạc:  

 






 


Khuynh hướng này ra đời và phát triển song song với khuynh hướng hiện thực trào phúng. Ða số các nhà thơ thuộc khuynh hướng này đều xuất thân từ tầng lớp quan lại phong kiến suy tàn, mang tâm lý hưởng lạc, cá nhân, tùy thời. Trong bối cảnh chung là sự thất bại của phong trào chống Pháp và việc đặt ách thống trị lên đất nước ta, một số khác ra làm quan mục đích để hưởng nhàn chứ không đàn áp phong trào kháng chiến, số khác thoát ly vào thơ, rượu, vào mộng, vào tình yêu…


 


Khuynh hướng này thường viết về thiên nhiên, thời thế,tâm trạng, thỉnh thoảng có bày tỏ nỗi lòng yêu nước thầm kín nhưng chủ yếu nói về cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc của họ. Các tác giả tiêu biểu như Dương Lâm, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh…


 


Sáng tác của họ  thường bằng chữ Nôm nên đã có những đóng góp nhất định trong việc trau dồi ngôn ngữ dân tộc. Tuy nhiên, khuynh hướng này thường chủ trương là co về mình, thích hưởng lạc, lao vào ăn chơi nên ít nhiều cũng gây ảnh hưởng tai hại.


 





4. Khuynh hướng nô dịch:  

 






Ðây là khuynh hướng phản động bao gồm những tên tay sai cho Pháp, như Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải.


 


Nội dung của khuynh hướng này là ca ngợi người Pháp, bênh vực biện hộ cho những tên tay sai, phục vụ cho mục đích chính trị của Pháp.


 


Trong thời kỳ đầu khuynh hướng này còn tỏ ra ra dè dặt, úp mở nhưng càng về sau càng lộ rõ tính chất phản động của nó. Tiêu biểu có Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh.


 


IV. ÐẶC ÐIỂM CỦA VĂN HỌC YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP:





1.Văn thơ yêu nước gắn liền với vận mệnh dân tộc:  

 






 


Văn thơ yêu nước tự phát tham gia gánh vác nhiệm vụ của dân tộc một cách vẻ vang. Nó gắn liền với vận mệnh của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử bi tráng. Ðồng thời nêu lên hai vấn đề có liên quan đến vận mệnh của dân tộc: Vấn đề chính trị và vấn đề nhân sinh.


 


1.1. Vấn đề chính trị:


 


-Vấn đề Duy tân được thể hiện qua các bản điều trần của những sĩ phu có đầu óc canh tân như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch. Hai ông đã nhiều lần đề nghị triều đình nghiên cứu thực hiện chủ trương cải cách đất nước, nhưng không được triều đình chấp nhận, việc Duy tân thất bại.


 


– Vấn đề chống Pháp, chống thỏa hiệp đầu hàng là vấn đề trọng tâm của  văn học yêu nứơc chống Pháp.


 


– Vấn đề vai trò của người dân có ý nghĩa lịch sử quan trọng, nhất là trong việc chống ngoại xâm. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Ðình Chiểu không chỉ ca ngợi người dân ở chiến lược, chiến thuật, về tinh thần chiến đấu mà còn ở nhận thức tự phát của họ:


 


Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.


Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.


(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)


 


Trong bức thư Phan Ðình Phùng trả lời Hoàng cao Khải  nhân dân là mục tiêu phục vụ, mục tiêu bảo vệ và chiến đấu của nghĩa quân, nhân dân gắn liền với phong trào kháng chiến.


 


1.2. Vấn đề nhân sinh quan:


 


Nói đến nhân sinh quan là nói sống để làm gì? Sống như thế nào?Thái độ của con người trước sự sống và cái chết? Ðể giải quyết các vấn đề chính trị, thơ văn yêu nước đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa thời sự.


 


– Vấn đề sống – chết được giải quyết không theo quan điểm con người trừu tượng theo kiểu tôn giáo mà từ góc dộ của cuộc đấu tranh dân tộc. Tức là sống trọng nghĩa  và chết đúng đắn


 


Làm người sao khỏi thác, thác trung thần thác cũng thơm danh


(Hịch Quản Ðịnh)


Hay:


Ninh cam tử táng sài lang vẫn

Khẳng nhẫn sinh phùng bạch quỷ ưu.


(Nguyễn Cao điếu Nguyễn Tri Phương)


 


– Khái niệm vinh – nhục theo quan điểm thà chết vinh hơn sống nhục. Sống đánh giặc cứu nước là sống đúng, chết vì nước nhà là vinh, sống theo giặc đầu hàng phản bội là sống nhục (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Ðịnh, Thơ điếu Phan Tòng).


 


–         Khái niệm chính khí gắn với hành động vì nghĩa:


 


Nhớ câu kiến nghĩa bất vi


Làm người thế ấy cũng phi anh hùng


(Nguyễn Ðình Chiểu)


 


Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi

(Thấy nghĩa há đành làm kẻ không có dũng)


(Hồ Huấn Nghiệp)


 


Các vấn đề nhân sinh quan được đặt ra dựa vào các hệ tư tưởng vốn có ở nước ta nhưng chủ yếu từ cơ sở, tư tưởng Việt Nam, từ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.


 





2. Văn thơ yêu nước gắn với cuộc sống dân tộc và con người thời đại:  

 






2.1. Văn thơ yêu nước phản ánh về dân tộc và về thời cuộc:


 


Văn thơ yêu nước là cuốn sử thi của thời đại đã ghi chép một cách cảm động trung thành cuộc đấu tranh của dân tộc. Ðó còn là lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này.


 


Văn thơ yêu nước còn chứng tỏ rằng dẫu nước mất nhưng còn dân, còn giá trị tinh thần truyền thống và tin tưởng vào thắng lợi của dân tộc.


 


2.2. Văn thơ yêu nước phản ánh về con người thời đại:


 


Ðó là những con người tiêu biểu như người sĩ phu, người trí thức bất hợp tác, người nông dân, người phụ nữ, người nghĩa sĩ … Bên cạnh đó còn có những tên sâu dân mọt nước như bọn vua quan, bọn tay sai và cả một bức tranh xã hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX được tái hiện một cách đấy đủ, sinh động.


 


Có thể nói, với những nét hào hùng về thời đại, về dân tộc, về con người, văn thơ yêu nước được xem như pho sử thi đau thương nhưng không kém phần hùng tráng của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại.


 





3.Văn thơ yêu nước là bản anh hùng ca:  

 






 


Cuộc đấu tranh trong giai đoạn này rất hào hùng nhưng không tránh khỏi thất bại. Âm hưởng chung của văn thơ yêu nước giai đoạn này là âm điệu đau thương nhưng anh dũng. Thậm chí cái buồn, cái bi quan cũng không phải không gây phẫn uất. Do đó, nó là một âm điệu bi hùng.


 


V.KẾT LUẬN CHUNG:


 


Ðây là giai đoạn cuối cùng của văn học được sáng tác dưới sự chi phối của ý thức hệ phong kiến. Văn học giai đoạn này đã bám sát cuộc sống, cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống Pháp, đã ghi lại một cách sinh động trung thành một giai đoạn lịch sử đau thương mà hùng tráng của dân tộc, ghi lại cuộc chiến đấu bền bỉ của dân tộc ta. Có thể nói, giai đoạn này mang tính chiến đấu cao, tính dân tộc, tính đại chúng dồi dào, rõ rệt.


Cho đến nay, những tác phẩm yêu nước vẫn luôn mới về tinh thần đấu tranh chống xâm lược, chống thỏa hiệp đầu hàng, và nó đã để lại không ít bài học về nhiều mặt, từ tư tưởng đến tình cảm, không chỉ cho một thời mà còn cho lâu dài.