
Đọc hiểu Phú sông Bạch Đằng
Đọc hiểu Phú sông Bạch Đằng
(6) Kết (Đến bên sông chừ hổ mặt… Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao) : ý của phần kết nối tiếp ý phần nghị luận ở trên : đạo đức của người nắm nhiệm vụ lãnh đạo quốc gia là quan trọng : tác giả nhằm ca ngợi Thượng hoàng Thánh Tông và vua Nhân Tông, hai vị thánh quân, và thông qua việc này, ý muốn nói : bài học về đoàn kết toàn dân để bảo vệ Tổ quốc là một bài học quý báu, vì muốn đoàn kết được toàn dân, thì người ở cương vị lãnh đạo quốc gia phải có đạo đức cao cả.
Kết cấu một bài phú phải chặt chẽ. Có những nhóm từ, liên từ hoặc trạng từ đặt đầu câu, hoặc đầu đoạn mạch có tính chất nhấn mạnh một ý, hoặc báo hiệu chuyển sang một ý khác, làm cho câu văn thêm đậm đà, ý nhị với tất cả đặc trưng tu từ của nó, thí dụ : mở đầu có những từ : Khách có kẻ (nguyên văn : Khách hữu), hay đoạn bô lão bắt đầu kể lại trận đánh, thì mở đầu bằng mấy từ : Đương khi ấy (nguyên văn : Đương kỳ), hoặc như đoạn tác giả nói về nguyên nhân thắng lợi của ta, với mấy từ mở đầu : Tuy nhiên (nguyên văn : Tuy nhiên) để so sánh “đất hiểm” với “nhân tài”.
Nếu chúng ta so sánh lôgíc kết cấu một bài phú cổ như bài Bạch Đằng giang phú nói trên, với lôgíc bố cục thông thường một bài tả cảnh hiện nay với đề tài tương tự, thì hai phần lung và biện nguyên tương ứng với phần mở đầu, ba phần tiếp : thích thực, phu diễn, nghị luận tương ứng với phần chính của bài, và phần kết tương ứng với phần tổng luận của bài.
… Từ trận thắng đầu tiên nổi tiếng của Ngô Quyền năm 938 đến nay, dòng sông Bạch Đằng tuy đã đổi thay nhiều chỗ, nhưng hình ảnh những trận thuỷ chiến oanh liệt trên sông Bạch Đằng vẫn in sâu trong tâm trí của nhân dân ta từ đời này qua đời khác. Và nhớ đến sông Bạch Đằng là nhớ đến thơ văn ca ngợi sông Bạch Đằng, ca ngợi những trận thuỷ chiến, nhất là trận thuỷ chiến đời Trần.
Trong số thơ văn đó, bài phú của Trương Hán Siêu, bài phú thứ nhất về sông Bạch Đằng, nổi lên như một áng văn hay “không tiền khoáng hậu” ? Đây là một bài phú cổ thể, có pha đối thoại và liên ngâm, nên rất sinh động. Tất nhiên, với những hạn chế của nhân sinh quan cũ thời bấy giờ, Trương Hán Siêu mới giới thiệu sơ qua lời nói của các bô lão ven sông, và hình ảnh bô lão cũng còn mờ nhạt ; Trương Hán Siêu chưa thể có điều kiện để thấy hết vai trò quan trọng của quần chúng, cho nên khi nói đến nhân tố con người, tác giả chỉ nhấn mạnh các bậc anh hùng hào kiệt, mà chưa nhấn mạnh đến lực lượng quần chúng, hoặc mới chỉ nhấn mạnh vai trò chỉ đạo của vua mà chưa nhấn mạnh sức hậu thuẫn vĩ đại của quần chúng. Tuy nhiên, mặt hạn chế tất yếu đó của lịch sử vẫn không làm giảm giá trị to lớn của bài phú mẫu mực này, một bài phú đậm đà tính chất trữ tình, mà lại pha màu sắc anh hùng ca ; nó đã khắc hoạ một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc với tất cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước, đồng thời gợi lên cho chúng ta, những con em đất Việt ngày nay, trong thế hệ Hồ Chí Minh, một bài học sâu sắc về sự quyết tâm bảo vệ bằng bất cứ giá nào cho trọn vẹn “non sông gấm vóc” mà tổ tiên đã để lại cho mình.
(Bùi Văn Nguyên, Giảng văn, tập 1, Sđd)
2. Đọc thêm bài phú của Nguyễn Mộng Tuân
Hậu Bạch Đằng giang phú
1. Muôn trùng nắng vàng chói lọi ; bốn phương cát bụi sạch không ;
Ngắm sông Đằng bát ngát ; nhớ Hưng Đạo oai phong ;
Miền Hải Đông vang lừng nhờ có sông Đằng oanh liệt ;
Dòng họ Trần bất diệt nhờ có chiến công Bạch Đằng bất hủ vậy !
2. Mông Kha đã bỏ đời ; Bế Thiền toan nối giống ;
Nhắm Loan, Hoàn định đất đóng đô ; chiếm Giang, Hoài làm đà đánh Tống.
Hung hăng dùng thế chẻ tre, tấp tểnh lệnh quân truyền rộng.
Toa Đô tiến ra bể, Hoan, ái xôn xao ; Ô Mã vượt biên thuỳ, Lạng Sơn náo động.
Hai vua Trần bí mật ra khơi, vào phía trong, động cao lánh bóng.
Thế nước : tựa băng rữa tàn xuân ; lòng người : vẫn thành đồng vững đóng.
Quanh hoàng tộc : bao bậc anh tài, cạnh thánh triều : bao người trung dũng !
Dân chúng đều hăng : hiền tài được trọng.
Hiến, Nghiễn, Khánh Dư gắng chí vuốt nanh ;
Thượng tướng, Quốc công dốc lòng lương đống.
3. Lại thêm :
Đất trời dữ dội ; mưa lụt mênh mang.
Bệnh dịch lan tràn binh trại ; rận rệp chui rúc quân trang.
Mũ sắt giáp công, thanh danh rền vang sấm động ;
Cung giương diệt thù, nghĩa khí tuôn dậy gió tràn.
Nghe hơi quân ta mà Thoát Hoan bỏ chạy ; mũi tên chẳng mất mà Lệ Cơ đầu hàng !
Chúng rút lui theo gió nam bức bối ; chúng lẻn về giữa sóng biển mênh mang.
Mưu sĩ ta lớp lớp ; giáp binh ta hàng hàng.
Sóng cuộn một mầu vốn nông sâu khó nhận ;
Thuyền bè muôn đội vốn hư thực khôn lường.
Thế bắt giặc trong tầm mắt, thế thắng giặc chỉ tầy gang.
Bước thành công nên thận trọng ; lệnh chỉ huy phải nghiêm trang.
Vậy nên :
Bọn Ô Mã cùng đường tận số ; lũ kình nghê vướng lưới tiêu tan !
Tiếng thét vang trời, núi non tưởng chừng sạt đỉnh ; thây trôi đầy biển, tôm cá được dịp đầy nang !
Thế ta bừng bừng, trận Xích Bích nào sánh kịp ; cảnh giặc hoảng loạn, gió Hoài, Phì nọ truyền sang !
Chinh chiến cùng đường, giặc đành lụn bại !
Trùng Hưng dựng nghiệp, ta lại huy hoàng !
4. Ta thường :
Bơi thuyền trăng sáng ; ngắm cảnh tần ngần.
Vạn Kiếp khí thiêng ? Rượu dâng chuốc chén Lô Giang chúc tụng ; giọng cất vang ngân.
Ráng đỏ treo mây tưởng chừng máu tanh nhuộm thắm ; đầu lâu gào gió, nghe như ốc thảm thu quân !
Buồn nỗi cát vùi giáo gẫy ; bêu đời tiếng xấu quân Nguyên !
Rì rào sóng gợn ; ấm ức oán hờn !
Vết tích xưa : tuy mờ nhạt, non sông cũ : vẫn không sờn.
Tội Lưu Nghiễm xưa kia chưa rửa sạch ; giận thay !
Cọc sông Đằng lại một phen khiến giặc phải bạt vía kinh hồn vậy !
5. Thế mới biết :
Nước có đất hiểm ; trời sinh hiền tài.
Sáng soi nhật nguyệt, quét sạch hoạ tai !
Vốn nghĩ rằng :
Sông Đằng cuồn cuộn chảy ra bể khơi ;
Nước sông Ngân rửa giáp khiến kình ngạc im hơi !
Hay gì cảnh máu đổ xương rơi ?
(Vân Trình (dịch), Giảng văn, tập 1, NXB Đại học và THCN, 1982)
([1]) Xem : Thơ ca Việt Nam (Hình thức và thể loại) của Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức – NXB Khoa học xã hội, tr.324, 325.
([2]) Có hai thể phú : phú cổ thể pha Sở từ (có chữ “hề” cuối câu) thường gọi là phú kiểu Tống Ngọc, còn phú Đường luật, thường gọi là kiểu Lí Bạch.